VIETNAM
NEWS NETWORK (VNN)
P.O. Box
661162
Sacramento
,
CA
95866
Phone & Fax: 916-480-2724
Email: vnn@vnn-news.com
Website: www.vnn-news.com
**********************************
Bài Vở Hàng Ngày
Ngày 30 Tháng 08 Năm 2007
**********************************
1- Thời Sự Việt
Nam
- Thử Thách Quyền Lực Ðảng
CSVN
Trần
Nam
2- Ðọc Báo Ngoại Quốc
- Bỏ Iraq sẽ nhìn thấy một
thảm cảnh
Việt Nam
William Shawcross (The Sunday Times
26/8/07) - Khánh Ðăng lược dịch
3- Tin Tức Quốc Nội
- Chân Dung Tội
Phạm: Nguyễn
Chí Vịnh
Võ Ðồng Ðội (*).
4- Tham Luận
- Việt Nam: Sau Ngưỡng Cửa
WTO
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết
5- Tham Khảo
- NGUYỄN
BẮC SƠN, điên hay tỉnh khi viết về thân phân mình Qua người lính VNCH
Mường Giang
6-
Câu Chuyện Việt
Nam
Văn
Quang
7- Văn Học Nghệ Thuật
- Tìm Xưa Châu Thổ
Phan Thái Yên
**********************************
1- Thời Sự Việt
Nam
- Thử Thách Quyền Lực Ðảng CSVN
Trần
Nam
"Từ sai lầm này đến sai lầm khác, thế hệ này đến thế hệ khác tiếp tục trở thành nạn nhân của những quyết định lạc hậu của đảng CSVN. Hơn 80 triệu dân, biết bao nhiêu đầu óc tầm cỡ, bao nhiêu tinh hoa dân tộc cứ phải cúi đầu nhẫn nhục, để anh mục đồng dắt đi từ cánh đồng khô này đến cánh đồng cháy khác."
Từ lâu vai trò độc tôn lãnh đạo Ðảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã thành chân lý nhờ vào bộ máy trấn áp của mật vụ, công an và quân đội. Khi đảng CSVN nắm chính quyền, trước sức mạnh của nòng súng, hơn 60 năm qua không ai dám
bàn về vị trí lãnh đạo của đảng. Gần đây, sự ra đời của Ðảng Dân chủ Nhân dân (DCND) đánh dấu bước ngoặt, để góp phần cùng với các đảng phái anh em khác, đặt lại vai trò
lảnh đạo đảng CSVN và - Nhân dân chính là
người sẽ thực hiện quyết định lịch sử đó.
Chủ nghĩa cộng sản đã lỗi thời trước xu thế của lịch sử. Vì vậy, những sứ giả, những kẻ thừa sai rao
giảng chân lý giả hình trước Nhân dân mất chỗ dựa tinh thần, bị khủng hoảng, nên đâm ra lúng túng. Không biện minh được tính lý luận, thiếu thực tế trước đà tiến hoá, chủ nghĩa cộng sản bị đẩy lùi vào bóng tối. Trước bối cảnh này, các nhà lý luận đảng CSVN nặn ra cái
gọi là "kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa". Ðiều này, ngay cả Mác chắc cũng phải lăn đùng ra giẫy giụa, khóc thét trước đứa con bệnh hoạn. Một sản phẩm mà CSVN cho là đột phá lý luận đầy cơ bản và sáng tạo của đảng.
Hội nghị Trung ương đảng CSVN thứ 13 và 14 và kết qủa của ÐH 10 cho thấy đảng CS đang đối diện với tình trạng khủng hoảng nội bộ và suy thoái trầm trọng. Hiện nay, Tổng cục 2 (TC2) khuynh đảo toàn đảng đã làm cho Bộ chính trị bị tê liệt. Giải quyết rốt ráo các vụ án tham nhũng đang làm rúng động dư luận sẽ lôi ra hàng loạt các vụ án oan, vụ án tham nhũng khác mà TC2 và đảng đã từng nhúng tay, có dính líu đến nhiều Ủy viên
Trung ương đảng, UV Bộ Chính Trị. Luôn cả phải giải quyết trường hợp đảng tịch của Lê Ðức Anh, vấn đề công khai hồ sơ khi tham gia đảng, vấn đề liên hệ giữa TC2 và vây cánh của Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười. Thực ra, về mặt quyền lực, TC2 đă đứng trên đảng CSVN, TC2 chỉ đạo các sách lược và sắp xếp nhân sự lănh đạo. Ðảng và TC2 dựa vào nhau để sống còn. Ðảng cần TC2 để trấn áp, bảo vệ bộ máy đảng và cai trị xã hội dưới chế độ toàn trị, ngược lại TC2 cần đảng, hợp thức hoá vai trò của mình để cả hai cùng tồn tại.
Mặc dù áp lực chính trị rất mạnh mẽ. Các góp ý đòi hỏi đảng phải thay đổi cho phù hợp với trào lưu thế giới càng lúc càng tăng. Dù vậy, vai trò lãnh đạo đảng vẫn chưa bị thử thách. Trào lưu dân chủ có tiến bộ hơn, đảng có nhượng bộ một chút trước áp lực của công luận, trước viễn ảnh phải vuốt ve siêu cường để vô được WTO, trước việc cần ngả sang Mỹ để cân bằng chiến lược với Trung quốc. Nhưng đảng CS quyết không nhượng bộ đến nổi phải sửa đổi hay hủy bỏ điều 4 Hiến pháp, điều khoản qui định ngôi vị độc tôn lănh đạo đảng CSVN. Ðảng chọn thái độ đối đầu với sức mạnh của Nhân dân. (1)
Từ lâu, đảng CSVN đă không khoan nhượng với bất cứ lực lượng chính trị nào dám thách thức quyền lực của đảng. Căn bệnh gia trưởng, phong kiến, tâm lý cha già dân tộc, tính tự mãn vì bị quyền lực thoái
hoá đă che mất lý trí những nhà lănh đạo Ðảng CSVN.
Bị bao vây trong lồng kính tập trung
dân chủ, những khối óc trong Bộ chính trị xa lạ với sinh hoạt chính trị dân chủ, đa nguyên. Những quyết định sai lầm ảnh hưởng đến sinh mạng cả dân tộc đều thu gọn trong các cuộc họp kín ở Bộ Chính Trị. Cụ thể, chỉ ý kiến của một hoặc hai UV BCT đã mang yếu tố quyết định. Cuộc cải cách ruộng đất gây bao thảm hoạ cho cả miền Bắc, chiến dịch đánh tư sản mại bản làm sụp đổ nền kinh tế miền Nam, chính sách tập trung cải tạo những quân
nhân viên chức chế độ miền Nam làm chia rẻ cả dân tộc, để lại bao đau sót, hận thù chồng chất, quyết định ký kết các hiệp ước với Trung quốc làm mất đất, mất lãnh hải cha ông bao đời gây dựng. Và gần đây nhất quyết định đưa Việt
Nam
vào cái gọi là "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" đang ra sức kéo lùi đà tiến hoá của dân tộc.
Từ sai lầm này đến sai lầm khác, thế hệ này đến thế hệ khác tiếp tục trở thành nạn nhân của những quyết định lạc hậu của đảng CSVN. Hơn 80 triệu dân, biết bao nhiêu đầu óc tầm cỡ, bao nhiêu tinh hoa dân tộc cứ phải cúi đầu nhẫn nhục, để anh mục đồng dắt đi từ cánh đồng khô này đến cánh đồng cháy khác.
Sự ra đời Ðảng Dân chủ Nhân dân không phải ngẫu nhiên như trái sung rụng từ trên cây xuống. Ðây là kết qủa của quá trình chuẩn bị âm thầm, từng bước xây dựng căn bản chính trị và lực lượng để đảng hình thành và hoạt động trong điều kiện vô cùng
khó khăn. Nó là kết tinh của những khối óc trăn trở từ thành viên Câu Lạc Bộ Dân Chủ, và Ủy ban Vận động Tự do cho Tù nhân Chính trị Việt Nam, là kết hợp khởi đầu của những trí thức từ Nam chí Bắc. Tất cả hội tụ lại vì đau xót trước đất nước tan hoang, bị dày xéo bởi một tập đoàn lănh đạo ù lỳ nhất trong lịch sử dân tộc.
Sau một năm kể từ ngày
công bố Tuyên Ngôn lập đảng (ngày 1 tháng 1 năm 2005), với hơn 95% đảng viên có bằng Ðại Học hoặc cao hơn, liên tục tham
gia đấu tranh đòi Tự do - Dân chủ - Nhân quyền trải rộng từ Nam đến Bắc; đảng DCND đã hiện hữu và chiến đấu theo dòng sinh mệnh của dân tộc sẽ là một thách đố chính trị đối với đảng CSVN. (2)
Từ lâu, bộ máy đảng quen với quán tính "không đối lập" cho đến khi bị đứng trước thử thách. Ðảng CSVN giờ đây đang bị bứt ra khỏi qũy đạo quen thuộc - qũy đạo không đảng phái đối lập chính trị hoạt động tại Việt
Nam
- Thông thường thì họ phản ứng rất quyết liệt, thô bạo và chủ trương
trấn áp tới cùng. Ðảng CS không ngần ngại sử dụng bạo lực, chuyên chính nhằm triệt tiêu đối lập. Ðó là phương cách duy nhất của cường quyền để bám chặt vị trí độc tôn. (3)
"Muốn lật đổ chế độ, phải để cái thối nát đến chỗ tận cùng". Lênin đă nói vậy, như một lời tiên nghiệm cho các chế độ toàn trị. Vấn nạn của dân tộc Việt
Nam
là chế độ độc tài - toàn trị hiện nay đã thối nát đến chỗ tận cùng chưa? Những tệ nạn tham nhũng đã đến chỗ ghê tởm chưa? Những nhũng lạm, cửa quyền, tuỳ tiện từ bộ máy cai trị cấp làng, xã, huyện cho đến tỉnh thành đã đến chỗ Nhân dân không chịu đựng được nữa chưa? Những hà hiếp, áp bức Nông dân, Dân oan gây ra bao cảnh khiếu kiện, nghèo đói, oan ức - Những đàn áp,
bóc lột khi tiếp tay tư bản ngoại quốc, quay lưng lại nỗi bất công của Công nhân đă chín muồi chưa?...
Nếu chưa thì
nhân dân Việt
Nam
còn chịu đựng sự cai trị độc tài của Ðảng CSVN đến bao giờ?
Ðiều gì đă làm cho cả dân tộc từng tự hào về lòng quật khởi chống ngoại xâm lại bị tê liệt trước nanh vuốt của độc tài, đảng trị. Ðộc tài là
giặc nội xâm, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Vậy thì tại sao những thế hệ thanh
niên đã từng lao mình vào cuộc chiến chống ngoại xâm nhưng lại thụt lùi trước cuộc chiến chống độc tài?. Ðiều gì đã làm cho những lực lượng trí thức ưu tú nhất, tiếp tục quay lưng trên nỗi đau khổ của dân tộc, cứ nhắm mắt, bịt tai nhìn đất nước, nhân dân càng lúc càng tang hoang, thảm bại.
Ðiều gì có thể làm
chúng ta bật dậy, không đắn đo suy nghĩ, không so đo thua thiệt, không sợ sệt chần chừ. Cả nước, người người lớp lớp, có cuốc dùng cuốc, có búa dùng búa, có viết dùng viết, có cái gì dùng cái nấy, tràn về khu Bùng
Binh Sài Gòn, lao về khu Ba Ðình Hà Nội... Cả triệu con tim rực lửa, gầm vang trời đòi "Dân chủ, Tự do". Liệu Bộ chính trị, Trung ương Ðảng CSVN, những ông già bệnh hoạn, bảo thủ; vỏn vẹn trăm người có bị nghiền nát trước sức mạnh của Nhân dân không?
Cái sức mạnh kết tinh từ hàng chục năm của những dân tộc từng bị Cộng sản cai trị, bị dồn nén, bị áp bức, mà
chính cựu Tổng thống Tiệp Khắc Václav Havel đã từng nhận định trong cuốn sách Quyền lực của những kẻ không Quyền lực: "Ðây không phải là sự kiện từ trên trời rơi xuống, mà nó là một cái gì có tính cách tự nhiên, không thể tránh khỏi, hậu quả của một giai đoạn chuyển biến lịch sử làm ám ảnh hệ thống chính quyền Cộng Sản. Kết tinh từ hàng ngàn lý do, những kẻ phản tỉnh đã hiện hữu từ lâu, kể từ ngày chính quyền này ra đời vì họ không thể chấp nhận được sự tàn bạo, tùy tiện sử dụng bạo lực để đàn áp tất cả những ai khác chính kiến. Hơn nữa cũng chính vì hệ thống cai trị độc tài này đă trở nên lão hoá, cứng nhắc không thích hợp cho bất cứ một sự ứng dụng mới mẻ nào có ý hướng thay đổi cấu trúc chính trị của nó".
Ðảng CS Nga, CS Tiệp, CS Ba
Lan, CS Ðông Ðức, CS Hungary, CS Romania.... đã bị đổ nhào, liệu Ðảng CSVN có thoát khỏi qui luật này không? Nhân Dân Việt
Nam
chính là người sẽ trả lời câu hỏi lịch sử đó.
***
1- Mới đây (ngày 27 tháng 8 năm 2007), trong cuộc gặp lãnh đạo cao cấp của Tổng Cục Chính trị nghành Quân Ðội và Công An, ông Nguyễn Minh Triết đã nhắn nhủ cần học tập kinh nghiệm của Liên Bang Sô Viết vì với quân đội hùng hậu như vậy nhưng Liên Sô vẫn sụp đổ trước cao trào dân chủ. Họ sụp đổ, theo ông Triết vì mất cảnh giác, vì quân đội, công
an đã không làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Ðảng. Ông Triết, một cách chỉ đạo trực tiếp các bộ máy này cần phải gia tăng trấn áp. Ông Triết cũng phát biểu không thể huỷ bỏ điều 4 Hiến Pháp, vì làm vậy tức là tự sát.
2- Bài này viết từ tháng 1 năm 2006, ký tên Nguyễn Sơn, kỷ niệm một năm ngày thành lập Ðảng DCND. Bối cảnh hiện nay đã thay đổi, nhiều thành phần khác bên cạnh giới trí thức như Nông Dân, Công
Nhân, Viên chức Nhà nước đã tham gia Ðảng DCND.
3- Cuộc đàn áp Ðảng DCND hồi tháng 8 năm 2006 vừa qua đã xác minh. Những vu cáo tội danh khủng bố, hoặc tuyên án nặng nề các lãnh đạo Ðảng DCND như Bác sĩ Lê Nguyên Sang, luật sư Nguyễn Bắc Truyễn, ký giả Huỳnh Nguyên Ðaọ về tội tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN chỉ để bảo vệ vai trò độc tôn lãnh đạo của Ðảng CSVN.
=END=
2- Ðọc Báo Ngoại Quốc
- Bỏ Iraq sẽ nhìn thấy một thảm cảnh Việt
Nam
Abandon
Iraq
and see a
Vietnam
horror show
William Shawcross (The Sunday Times
26/8/07)
Khánh Ðăng lược dịch
Một người đã nhìn thấy Việt
Nam
biến thành địa ngục sau khi người Mỹ ra đi, cảnh báo việc gây ra thảm hoạ tương tự cho
Iraq
.
Không phải tất cả mọi người sẽ cho đó là một cái bằng danh dự được tuyên dương một cách thiên vị bởi Tổng thống Bush trong một bài diễn văn về Iraq, nhưng nó đã xảy ra đối với tôi hồi tuần trước khi ông Bush cảnh báo rằng cái hậu quả của việc vội vã rút khỏi Iraq có thể đưa đến một cuộc tắm máu còn tồi tệ hơn cái đã xảy ra tại Ðông Dương sau sự thất bại của Hoa Kỳ năm 1975. Trời ơi, tôi nghĩ là ông ta đúng.
Dĩ nhiên là
Iraq
chưa rơi vào tình trạng đó như tôi và
những người ủng hộ việc lật đổ Saddam Hussein đã hy vọng. Vài nhà phê bình người Anh đã lập luận về việc rời bỏ
Iraq
như sau: cái hậu quả, theo
tôi nghĩ, sẽ thê thảm vô vàn hơn là những ghê rợn mà chúng ta đang nhìn thấy hôm nay.
Lời đề nghị (rút khỏi Iraq) đã làm ngơ cái sự thật là đối với những kẻ Hồi giáo cực đoan, và đặc biệt là nhóm khủng bố Al-Qaeda, thì cuộc chiến để đánh bại phương Tây không thể tách rời nhau được. Osama Bin Laden đã nói Iraq là mặt trận tiền phương.
Chiến thắng của Al-Qaeda sẽ làm cho nhóm này lớn mạnh thêm ở tất cả mọi nơi.
Trong bài diễn văn dài giống như một bài giảng - ông
Bush đã đề cập đến cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Graham Greene, "Người Mỹ Thầm Lặng",
mà cuốn sách này miệt thị những cố gắng của người Mỹ tại Việt Nam - ông Bush nói: "Mới đây, có hai người ở hai bên đối diện nhau
trong cuộc tranh luận về cuộc chiến Việt Nam, đã hợp tác với nhau để viết một bài tiểu luận. Một người là thành viên của toán chính sách đối ngoại của Tổng thống Nixon, và người kia là một nhà phê bình rất gay gắt về các chính sách của chính phủ Nixon. Cùng với nhau, họ đã viết rằng hậu qủa của việc Hoa Kỳ thất bại tại
Iraq
sẽ thê thảm."
"Ðây là điều họ viết, 'Thất bại sẽ đưa đến một sự bùng nổ vô cùng mãn nguyện trong các thế lực Hồi giáo cực đoan, và đẩy toàn bộ cả khu vực Trung Ðông vào một sự hỗn lọan lớn hơn. Cái giá phải trả về nhân mạng và chiến lược sẽ ớn lạnh để tưởng tượng'. Tôi tin rằng họ nói đúng."
Hai người mà ông Bush đề cập đến là Peter Rodman, một cựu trợ tá của Henry
Kissinger và mới đây là phụ tá Bộ trưởng quốc phòng trong chính phủ ông Bush, và tôi.
Khi tôi làm nhiệm vụ tường thuật cuộc chiến Ðông Dương cho tờ báo The Sunday Times, tôi đã chống lại những cố gắng của Hoa Kỳ. Sau khi
phiá cộng sản thắng, những câu chuyện rùng rợn về sự dã man (của cộng sản) bắt đầu xuất hiện. Hàng ngàn và rồi cuối cùng là hàng triệu người, hầu hết là các "thuyền nhân", đã trốn thoát sự tàn ác của những kẻ chiến thắng cộng sản Việt
Nam
.
Tại
Cambodia
,
những kẻ chiến thắng cộng sản Khmer Ðỏ thì tàn ác nhiều hơn và khoảng gần 2 triệu người Cambodia đã bị hành quyết hoặc chết.
Sau khi nói chuyện với những người tị nạn Cambodia tại biên giới Thái-Miên, tổ chức một số những cuộc phỏng vấn tại Hoa Kỳ và thâu thập hàng ngàn trang tài liệu chính thức, được phép dưới đạo luật Tự do tìm kiếm thông tin của Hoa Kỳ, tôi đã viết một cuốn sách gọi là Sideshow: Kissinger, Nixon and the Destruction of Cambodia
(Màn phụ: Kissinger, Nixon và Sự Tàn Phá của
Cambodia), mà nội dung cuốn sách đã chê trách một cách vô cùng nặng nề chính sách về Cambodia của Toà Bạch Ốc dưới thời Tổng thống Nixon. Cuốn sách đó lập luận về sự thiếu thận trọng của người Mỹ từ 1970-1975 đã đưa đến việc tàn phá đất nước này và giúp cho bọn Khmer Ðỏ tàn ác
chiếm được quyền lực.
Ông Kissinger đã từ chối lời yêu cầu của tôi để được phỏng vấn trước khi xuất bản quyển sách, nhưng sau đó người trợ tá của ông ta là Peter Rodman, đã xuất bản cuốn The
American Spectator (Người Mỹ Quan Sát) là một cuốn sách dài, rất chi tiết để tấn công tôi và công trình nghiên cứu của tôi một cách rất mạnh mẽ. Tôi đã phản pháo, ông Rodman tấn công lại và cứ thế - sự việc đó khá lý
thú và tôi đã bao gồm tất cả những trao đổi đó trong những lần tái bản của cuốn sách Màn phụ: Kissinger, Nixon và Sự Tàn Phá của
Cambodia
Gần 25 năm sau,
sau khi Saddam bị lật đổ, điều mà tôi đã ủng hộ, thì cuối cùng tôi gặp Rodman lần đầu tiên và tôi vui sướng mà nói rằng chúng
tôi đã trở thành bạn. Ðầu năm nay chúng tôi cùng nhau viết bài tiểu luận đã khiến cho ông
Bush chú ý đến.
Hôm nay, cũng như trong thập niên
1970s, giới báo chí truyền thông có một trách nhiệm đặc biệt. Tại Ðông Dương, đa số các ký gỉa Hoa Kỳ và Âu Châu (trong đó có tôi) đã tin rằng cuộc chiến Việt Nam đã không
thể và không nên thắng. Cuối cùng thì một cái tít lớn trên tờ Nữu Ước Thời Báo đã viết như thế này: "Ðông Dương không có người Mỹ: Hầu hết có một cuộc sống tốt hơn."
Sự ngây thơ như vậy đã sai lầm thê thảm, và tôi
luôn nghĩ rằng những người như chúng tôi, những kẻ chống cuộc chiến của người Mỹ tại Ðông Dương nên mang bộ mặt vô cùng xấu hổ vì những gì khủng khiếp đã xảy ra sau đó. Tương tự như hôm nay, tôi nghĩ rằng cái mà nhiều kẻ trong giới có thế lực căm ghét (và đó thực sự là như vậy) là việc ông Bush và (cho đến mới đây là ông
Blair, Thủ tướng Anh) luôn được công luận chú ý đến.
Nhiều nhà bình luận sa lông
có vẻ như muốn đào sâu thêm việc xúc phạm (người dân Iraq) của lính Mỹ tại Abu Ghraib (đã bị chấm dứt nhanh chóng và trừng phạt) hơn là những vụ giết người khủng khiếp hàng loạt và có tính toán của bọn khủng bố, thuộc cả hai phe
Sunni và Shi'ite. Quá nhiều người Hồi gíao đã chết tại
Iraq
,
và đại đa số không phải là nạn nhân của lính Mỹ hoặc lính Anh. Họ đã bị giết bởi những người Hồi gíao khác.
Trên tất cả, chúng ta đã không
có sự chú ý đúng đắn đến hàng triệu người
Iraq
(cũng giống như những người Việt, người
Cambodia
và Lào cách đây 35 năm) đang đặt niềm tin vào phương Tây. Sự sợ hãi của những thông dịch viên người
Iraq
làm việc cho quân đội Anh bị bỏ rơi tại
Basra
chỉ là cái ngọn của một tảng băng.
Bên cạnh đó, nhiều nhà
bình luận và chính trị gia người Anh bây giờ đang đề nghị là chúng ta nên bỏ
Iraq
và chỉ nên chiến đấu tại
Afghanistan
.
Thật là ngẫu nhiên, sự tranh luận này đang xảy ra khi mà lần đầu tiên, người Mỹ đang có những tiến triển khả quan trong việc tảo thanh nhóm Al-Qaeda tại khu vực hậu cứ của chúng tại vùng tây bắc
Iraq
và thủ đô Baghdad. Dưới sự điều quân của một trong những tướng lãnh tài ba nhất của Hoa Kỳ, tướng David Petraeus, chính phủ của ông Bush đã đưa
khoảng 30 ngàn quân Mỹ đến những khu vực này và đánh bật nhóm Al-Qaeda ra khỏi đây.
Thành phần nổi dậy tại địa phương đang bị bất mãn bởi những thủ đoạn tàn ác của Al Qaeda - chặt đầu trẻ thơ, xẻo mặt người bằng dây đàn dương cầm, dùng xe bồn chứa hơi chlorine và hàng đống xe bomb như những vũ khí giết người hàng loạt để giết càng nhiều người vô tội càng tốt - và đang đoàn kết lại cùng chính phủ Iraq. Sự tin tưởng đang bắt đầu trở lại: ngay cả vùng Falluja, là một điạ ngục với những phòng
tra tấn và bạo động Hồi giáo cho đến khi thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ đến và đuổi Al Qaeda đi, bây giờ đã có một phòng thương mãi đang tăng trưởng.
Vào tháng tới tướng Petraeus phải điều trần về những thành công và thất bại tại Iraq trước Quốc Hội Hoa Kỳ, là nơi mà cả hai Ðảng Dân chủ và Cộng hoà đang gia tăng nghi ngờ nếu không muốn nói thẳng là chống đối lại những chính sách của Tổng thống Mỹ. Ông Bush có thể tuyên dương một cách chính đáng sự dũng cảm, lòng quyết tâm và những thành công của quân đội Mỹ. Nhưng những tiến triển của họ chưa được đáp ứng đúng bởi sự hòa giải và tiến triển giữa những thành viên người Sunni, Shi'ite and Kurdish của chính phủ
Iraq
.
Sự đe doạ thật sự đối với
Iraq
bây giờ đang nằm ở đó.
Hậu quả thất bại của Hoa Kỳ tại
Iraq
có thể sẽ xấu hơn ngay cả Ðông Dương.
Như lãnh tụ của nhóm Al-Qaeda tại Iraq là Abu Musab al-Zarqaw đã nói trước khi bị giết chết trong một cuộc không tập của Hoa Kỳ: "Máu của người Hồi giáo được phép đổ ra để ngăn cản một nguy hiểm lớn hơn là việc ngăn cản cuộc thánh chiến jihad". Sự trả thù kiểu Hồi giáo đối với những người theo đạo Hồi đang cố gắng xây dựng một đất nước
Iraq
tốt đẹp hơn sẽ vô cùng
thê thảm.
Tại sao những ghê rợn gây ra
bởi bọn Hồi giáo cực đoan tại Darfur làm cho chúng ta gớm ghiếc hơn là tại
Iraq
?
Bởi vì, theo tôi đoán, trong sự nhảy múa điên cuồng của cái đạo đức gỉa tự dối lòng, chúng ta thích đổ thừa cho Hoa Kỳ hơn. Chúng
ta nên trưởng thành.
Những ghê rợn tại Darfur
sẽ giảm màu sắc bên cạnh một cuộc tắm máu tại Iraq nếu chúng ta rút ra khỏi nơi đây, trước khi những gì có thể làm được đã làm rồi để giúp lực lượng an ninh Iraq bảo vệ đất nước của họ chống lại sự tàn ác của những tranh
chấp phe nhóm. Tôi hy vọng Thủ tướng Anh Gordon Brown và các cố vấn của ông ta
nhận thức ra rằng những ý tưởng mà chúng ta đang tìm kiếm để rút ra khỏi
Iraq
sẽ bảo đảm một thất bại. Trong cuộc thánh chiến jihad toàn cầu, tuyên truyền là một vũ khí chiến tranh quan trọng hơn bất cứ lúc nào trước đây.
=END=
3- Tin Tức Quốc Nội
- Chân Dung Tội Phạm: Nguyễn Chí Vịnh
Võ Ðồng Ðội (*).
Trong 10 năm!!! Một tên lưu manh vô
học, một tên tội phạm hình sự, tham ô, đã vọt lên vị trí Tổng cục trưởng Tổng Cục Tình Báo quân đội.
Từ một thượng uý chủ quán cháo lòng tiết canh, sống rách nát, sau một thời gian rất ngắn đã trở thành một Tướng Quân quyền uy tột đĩnh, giàu sang, danh vọng và giờ dây thực chất là một ông chủ tài phiệt, một triệu phú đô-la kinh
doanh kinh tế lẫn chính trị trên lưng Nhà Nước Việt Nam, bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện nhằm thoả mãn giấc mộng Ðế Vương.
Từ trộm cắp hình sự đến lưu manh kinh tế - chính trị
Khi còn là học viên tại Học Viện kỹ thuật quân sự, Vịnh bị bắt quả tang phá
mái nhà kho chui vào ăn cắp quân trang, dù biết là con Tướng Nguyễn Chí Thanh nhưng Học viện vẫn phải đuổi.
Sau đó nhờ vào gia đình, Vịnh xin
vào trường sĩ quan thông tin, nhưng do ngu dốt và biếng học, nên
tìm cách chuyển về Cục-2, tiền thân của TC2, núp bóng bố vợ là Ðặng Vũ Chính.
A) Sau 4 năm làm trợ lý và
loay hoay với quán cháo lòng ế khách, cuối năm 1989 nhờ sự giúp đỡ của anh rể, Ðại Tá Lê Việt Bắc, thư ký Tướng Ðào Ðình Luyện và hội G7 (1) gồm các tướng-tá: Sáu Ngọc, Ðặng Kháng, Quang Trung, Nhu, Việt Bắc, Hoàng Dũng, Phùng
Hưng đều ở Văn phòng BQP và Văn phòng BTTM, Vịnh cho ra đời Công ty du lịch, dịch vụ và thương mại TOSECO với quyết sách: "... bằng mọi cách kiếm được nhiều tiền thật nhiều tiền để dễ bề thao túng được mọi cấp quan chức và cán bộ."
Sách lược này đã được thực hiện bằng nhiều phương cách:
1- Kiếm tiền thông qua danh nghĩa tập thể
Lấy danh nghĩa công ty
TOSECO xin đất làm nhà ở cho cán bộ trong đơn vị, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất cho một số Công ty bình phong hoạt động tình
báo.
Vịnh chia ra hoạt động ở các lĩnh vực sau đây:
a) Mở Công ty liên doanh khu biệt thự quận 10, khu
cao ốc Hồ Tây, nhà hàng bia ôm "Quê Hương"
khu triển lãm GiảngVõ, đồng thời cho thành lập Công ty xây dựng và thương mại Hồng Bàng ở phía Bắc và Công ty HB ở miền Nam giao con trai và con rể của bố vợ làm giám đốc. Vốn liếng của 2 Công ty này được huy động trong họ hàng vợ chồng Vịnh và nhóm G7, do đó hai công ty này được trực tiếp nhận xây dựng các công trình của BQP mà đặc biệt không phải đấu thầu, thiết kế dự toán vv... mọi thanh toán đều thông qua phạm vi hẹp, bằng sức ép từ Văn phòng BQP và Văn phòng BTTM.
Riêng việc này Vịnh và bè
phái đã thu được:
- Các khoản tiền đền bù đối tác liên doanh, tiền lời xây dựng công
trình.
- Các khoản lời từ liên
doanh rút ra làm nghiệp vụ.
Một điểm đáng chú ý là sau khi chiếm đoạt tiền hoa hồng và đền bù từ liên doanh biệt thự quận 10, phó Giám đốc TOSECO là Ðào Quang Thép bị loại vì thắc mắc ăn chia!
b) Chiếm đoạt bất động sản của các đơn vị quân đội với lý do để hoạt động nghiệp vụ chuyên an lãnh thổ.
Ðầu tiên là kêu gọi Tướng Hoàng Hữu Thái, Tư lệnh hải quân dành khu nhà 1A công trường Mê Linh Sài Gòn để liên doanh làm kinh tế.
Sau khi hải quân đồng ý thì Vịnh và G7 lập luận hải quân không cần kinh doanh và đề nghị BQP quyết định chuyển cho TC2 dùng làm cở sở tác nghiệp tình báo. Tiếp theo đó, Vịnh xin ngân sách quốc phòng giao công ty HB xây dựng làm
trung tâm thương mại quốc tế rồi cho thuê lấy tiền bỏ túi riêng.
Lại một lần nữa gia đình Vịnh và đồng bọn thu được khoản tiền khổng lồ.
Thế là hải quân cay đắng mất đất, mất nhà!
Ðến bây giờ Trung Tướng Hoàng Hữu Thái, nguyên tư lệnh hải quân vẫn phàn nàn là đầu hai thứ tóc mà vẫn bị Vịnh lừa.
Cũng tương
tự, Quân khu 7 mất luôn nhà 51 Trương Quốc Dung và một số khu vực khác ở Biên Hoà, Vũng Tàu.
Cục đối ngoại mất khu 45 đường Trường Chinh và nhà khách Liễu Giai, Tổng Cục Chính
Trị mất nhà khách 14A Lý
Nam
Ðế, nhà nghỉ Ðồ Sơn.
Quân chủng phòng quân mất bãi
pháo hồ Trúc Bạch.
Quân khu 5, quân khu 3 đều mất những khu vực quan trọng.
Hà Nội mất hàng ngàn m2 trong
triển lãm Giảng Võ và sàn nhẩy Queen Bee Láng Hạ.
Ðáng chú ý là các tụ điểm giải trí đó hoạt động rất có lãi mà Nhà Nước không thu được bao nhiêu, nay biến thành những điểm tiêu cực xã hội.
Các vũ nữ xinh đẹp đều được cung hiến cho Lê Việt Bắc và nhóm
G7.
Có cô được phong
làm giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Ðế hiện nay, dù không một ngày cống hiến cho
cách mạng mà nghiễm nhiên có xe con, biển số 80B của Trung Uơng phục vụ, mang
quân hàm thiếu tá.
Nhà nghỉ của Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị tại Ðồ Sơn, nhà
khách TOSECO ở Vũng Tàu đều trở thành nhà chứa, nơi ăn chơi nghỉ mát cho đám tay chân, bộ hạ và người thân của Vịnh, khi có sai phạm đều lấy lý do tác nghiệp để giải quyết!
Các khu nhà nghỉ sang trọng đó được thiết kế thật cao cấp và trang bị nội thất rất hiện đại.
Vịnh và G7 đều xin ngân sách quốc phòng cấp để cải tạo, xây mới và giao Hồng Bàng và HB xây dựng. Những lúc
không cho bạn bè mượn thì Vịnh lại cho thuê...
Như vậy, Vịnh và gia đình lại một lần nữa thu tiền qua các công trình và kinh doanh nghiệp vụ, các
hình thức mở tụ điểm vui chơi, giải trí, ăn nhậu cho các quan chức Nhà Nước, nếu có tiền lãi thì hưởng trọn, nếu mất mát thất thu thì ngân sách Nhà Nước chịu!
c) Ðối với đất xin để xây nhà ở cho cán bộ, Vịnh khá chu toàn nhưng các khu đẹp như đường Trường Sơn, đường Sư Vạn Hạnh đều chia ưu tiên cho nhóm G7 nhất là đối với Kháng, Nhu, thư ký Ðại Tướng Ðoàn Khuê và Hồ Sỹ Hậu đã giúp trình Bộ Trưởng cấp cho Vịnh tất cả trên 40 xe con xịn các loại để đi lại và kinh doanh. Ðội xe nay đóng ở Thụy Khuê và hoạt động rất mạnh.
Như vậy, các mục a, b, c
nêu trên chỉ có ban kiểm tra đặc biệt của TW mới có thể kiểm kê được trong 10 năm qua Vịnh và đồng bọn đã bày mưu tính kế chiếm được bao nhiêu nhà đất? Hiệu quả thực cho nghiệp vụ chuyên an lãnh thổ, cho Ðảng và Nhà Nước được những gì?
2- Kiếm tiền qua những hợp đồng thương mại
Với lý do TOSECO có chức năng thương
mại nên từ khi có được ngân sách đặc biệt và được sự tiếp sức của G7,Vịnh đã thao túng ký nhiều hợp đồng mua máy bay, tàu thuỷ, thiết giáp phụ tùng cho
phòng không, không quân, đóng tàu trên 300 triệu đô-la.
Thủ trưởng Bộ cho phép
TOSECO được hưởng quy chế bí mật quốc phòng nên không cần đấu thầu. Mỗi chuyến hàng chở từ Nga về đến sân bay, Vịnh đều cho xe bọc kín vào lấy hàng và ra cửa sau, không qua bất kỳ một cửa kiểm soát nào. Với số tiền này, chúng khôn khéo bỏ túi tất cả các cấp lãnh đạo và bịt kín tất cả những thiệt hại nhiều trăm triệu đô-la của Nhà Nước.
Không có sự thẩm định các hợp đồng nên mua bán đều tùy tiện vào các môi giới và bộ hạ của Vịnh, giá mua thì rất đắt mà chất lượng lại kém.
Ví dụ như vụ việc máy bay
cường kích SU-27 được báo với Bộ là rẻ hơn Trung Quốc, nhưng thực tế là phía Trung Quốc mua SU-27 đánh biển, và TOSECO mua là SU-27 đánh không.
Tai hại hơn khi diễn tập ở biển thì
không hiểu vì lỗi kỹ thuật hay do chất lượng cũ kém nên một SU-27 đã rơi gây mất của, chết người.
Một thí dụ khác là
mua tàu và thiết bị vật tư đóng tàu, thiết bị sửa chữa máy tàu, mua thì đắt mà thiết bị lại quá cũ nên sau
gần 10 năm mà tàu chiến vẫn chưa ra tàu, nhà máy vẫn chưa ra nhà
máy.
Ðề nghị Ban Kiểm Tra
Trung Uơng đến nhà máy X50, X51 Ba Son của Hải quân/ Tổng cục kỹ thuật/ Tổng cục công
nghiệp quốc phòng và kinh tế, các quân binh chủng để tìm hiểu về vấn đề này.
Ðặc biệt dây
chuyền X50, tư lệnh hải quân Mai Xuân Vinh kiên quyết không cho nghiệm thu, nhưng sau
nhiều lần Vịnh dùng sức ép của Bộ nên ông Vinh đành cay đắng chấp nhận.
Như vậy, Vịnh và cộng sự đã kiếm được hàng chục triệu đôla tiền môi giới, hoa hồng, lại quả, tiền chi phí
vênh khi thực hiện hợp đồng theo cơ chế an ninh nghiệp vụ mà không ai được quyền biết đến.
Sau này khi cơ chế của BQP chặt chẽ và có kiểm soát hơn thì Vịnh chuyển sang kiếm tiền bằng cách thành lập hệ thống tình
báo công nghệ:
Cục tình báo công nghệ, Trung
tâm B5, Công ty SECOTEX (với danh nghĩa của Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng và Kinh Tế), Công ty HITACO (với danh nghĩa là Tổng cục kỹ thuật) xin được hàng ngàn m2 đất và đang xúc tiến xây dựng các dự án xin Nhà Nước đầu tư vào khu công nghệ cao thông qua Vụ Khoa Giáo Văn Phòng Chính Phủ (có sự chỉ đạo trực tiếp của Ðoàn Mạnh Giao).
Các Công ty Trung Tâm nói trên đều được nhà nước bao cấp, có tư cách ký kết trực tiếp các hợp đồng ngoại quốc để bảo đảm bí mật về tính năng kỹ thuật và nền công nghiệp quốc phòng.
Ngoài các Công ty nói trên, Vịnh đã chỉ đạo bố vợ là Vũ Chính cho phép mỗi Cục trong TC2 được thành lập ít nhất một Công ty bình phong dân sự trong nước để lấy người và phương tiện của quân đội kinh doanh thương mại làm lợi cá nhân và tập đoàn bè phái.
Tại hải ngoại thì Vịnh tập hợp một số thành phần lao động xuất khẩu để lùng sục, môi giới, hoặc giả giúp đỡ họ thành lập các Công ty bình phong do ngân sách quốc phòng
Nhà Nước đài thọ nhằm tìm kiếm đối tác phục vụ cho những hợp đồng thương mại nói trên.
Thử hỏi trong 6 năm qua
ngân sách Nhà nước đã chi cho chương trình tình báo công nghệ hàng trăm tỷ đồng nhưng chưa thu lại kết quả đáng kể về công nghệ cho quân đội để áp dụng vào sửa chữa và sản xuất trang thiết bị quốc phòng.
Người đứng đầu ngành tình báo công nghệ hiện nay là Phạm Ngọc Hùng, tự Hùng
"Tút" quân hàm Thiếu Tướng, một cộng sự tin cẩn nhất của Vịnh từ lúc còn ở Công ty TOSECO.
Tại TC 2 hiện nay,
hai người giàu nứt vách, có hàng trăm triệu đô-la, là TCT Nguyễn Chí Vịnh và PTCT Phạm Ngọc Hùng, chúng kiếm tiền như nước qua những hợp đồng mua sắm của Bộ Quốc phòng.
3- Khống chế cán bộ Ðảng và nhà nước như thế nào?
Ngay khi thành lập TOSECO,
Vịnh đề cử Tấn, em của Ðặng Kháng - trưởng phòng tổng hợp Bộ Quốc Phòng, một nhân vật trụ cột của G7 làm Phó Giám Ðốc thường trực phía Bắc. Tấn thuê nhà Lê Việt Bắc dùng làm văn phòng đại diện Công ty, đồng thời cử cháu Tướng Ðào Ðình Luyện là Ðào Quang Dũng làm Tổng đại diện ở Moscow.
Dũng cặp bồ với Thị Phương,
vợ của một cán bộ cao cấp TC2 tại Sanh Pê-téc-bua để thu nạp thêm tay chân bộ hạ trong đám nhốn nháo, nhếch nhác đang lao động xuất khẩu tại Nga, sau đó lần lượt đưa các con cha, cháu ông...Văn Phác, Hà Thị Quế, Ðỗ Ðức, Cao Tiến Phiếm...vv về TOSECO
làm vây cánh.
Sau khi có tiền, có phương
tiện và đầy đủ quyền uy trong tay, bằng mọi phương thức, bằng mọi thủ đoạn...bằng gái, bằng tiền, bằng ăn nhậu, bằng những đêm nhất dạ đế vương hoan lạc... Vịnh lần lượt đưa các tướng lĩnh ở những vị trí quan trọng như Lê Khả Phiêu, Lê Văn Hân (Cục trưởng Cục cán bộ), Ðoàn Mạnh Giao (Văn phòng Chính phủ), Dương Ðàm (Cục trưởng Cục quân lực), Hoàng Dũng (Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu), Nguyễn Hữu Cảng (Cục trưởng Cục Tài chính) vào mê hồn trận!
Sự chiều đãi vô biên hội G7 và một số chuyên viên quan trọng khác ở Bộ đã nới rộng quyền lực của Vịnh đến tột đỉnh.
Và chúng ta đã hiểu vì sao
chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Lê Khả Phiêu thời đó đã dễ dàng nhường các khu nhà khách quan trọng cho Vịnh kinh
doanh? Vì sao một cô ca ve rất thân thiết với Lê Khả Phiêu, Lê Văn Hân làm được giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Ðế, và được đeo lon thiếu tá?
Vì sao Vịnh đã bỏ túi được nhiều cán bộ cao cấp? Vừa thành công mỹ mãn về kinh tế và công danh sự nghiệp?...vừa là triệu phú đô-la, vừa được thăng quân hàm mỗi năm...xây dựng cả một hệ thống tay chân và đàn em điều khiển các tụ điểm nhảy đầm, bia ôm, gái điếm, "bình phong" của bao Công ty nghiệp vụ trong và
ngoài nước???
Tính đến nay Vịnh đã có 7 cơ ngơi hoành
tráng ở khắp đất nước được đứng dưới tên nhiều người thân thuộc. Vợ Vịnh ngày ngày lái xe con xịn đi làm, đeo kính đen, ăn mặc như minh
tinh màn bạc Hồng Kông, ai thấy cũng phải gờm.
Khi Vịnh lên Tổng Cục Phó đã mua
ngay trên 2000 m2 đất Thụy Phương, phía nam cầu Thăng Long để làm dinh thự. Trong khi đó, biết bao nhiêu chiến sĩ, cán bộ hoạt động cống hiến suốt đời cho ngành tình báo Quốc Phòng trong cả hai cuộc chiến chống Pháp,
chống Mỹ, giành Ðộc Lập cho Tổ Quốc và thậm chí cả những đồng đội còn tiếp tục hoạt động ngoại biên sau thời chiến, cũng chưa có ai được đặc cách đề bạt vượt cấp, vượt chức, vượt thời gian và có một cuộc sống đế vương như Vịnh.
Ðể khuynh đảo, giật dây được mọi giới, mọi cấp trong chính quyền, Vịnh cho ghi âm quay phim các buổi tiệc tùng, ăn chơi chiêu đãi thượng cấp, đặt máy nghe trộm điện thoại tất cả quan chức từ tỉnh thành đến quân đội từ trung ương đến địa phương để thực hiện thủ đoạn lưu manh chính trị.
Dàn dựng kịch bản, giả mạo chứng cứ để hãm hại đồng đội hay bất cứ ai dám đối đầu chỉ là trò con trẻ, Vịnh còn phù phép, hô phong hoán vũ biến củ ấu thành
tròn, biến không
thành có bằng các thủ đoạn cực kỳ gian manh nguy hiểm!
Kể từ khi các tướng Phạm Thanh Ngân và Lê Khả Phiêu đã lọt vào
gánh xiếc Chí Vịnh thì mọi quyết định, mọi công tác tổ chức bên Bộ đều do Vịnh gián tiếp sắp xếp phân bố điều hành đâu vào đấy...mà không ai biết được, ngoài Vịnh, đấy là đâu!!!
Tình trạng này nếu không sớm chấm dứt thì
trong tương lai rất gần toàn thể các vị lãnh đạo của Ðảng và Nhà Nước và toàn bộ cơ chế Quốc Gia đều bị Vịnh khống chế thông qua hệ thống tình báo quân đội do Vịnh đứng đầu, nếu vậy thì giấc mộng Ðế Vương của Vịnh không hẳn là xa vời!
4- Tại sao trong mười năm Vịnh đã làm được
nhiều việc "... đội đá vá trời"
như vậy?
1- Do bản chất lưu manh, bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện lại được sự hỗ trợ tích cực của G7. Khi G7 bị Bộ Quốc Phòng phân hoá thì Vịnh đã động viên cả nhóm hãy biết "nín thở qua sông và nhẫn nại chờ trời quang mây tạnh". Trong giai đoạn, Vịnh không
thể can thiệp được bằng không thì cả hội, cả thuyền sẽ bị chìm đắm. Vịnh hứa sẽ đảm đương việc gầy dựng lại G7 lớn mạnh hơn vững chắc hơn khi thời cơ đến, ví dụ: Tướng Hoàng Dũng vừa bị thay thì hắn đã xây dựng và sử dụng được Tướng Cao Tiến Phiếm, thay Ðặng Kháng thì xây dựng xongVõ Mai Nhẫn...
Khi Vịnh lên Tổng cục trưởng TC 2 liền bàn với Cao Tiến Phiếm đưa Trung, Kháng, trở về những vị trí quan trọng ở BQP vừa thể hiện tình nghĩa với các đàn anh, vừa tạo nanh vuốt hầu thực hiện mưu đồ chính trị. Phiếm vì món nợ trước đây mà giúpVịnh được nhiều việc, đặc biệt sự thành công trong lĩnh vực ma-phia
chính trị.
2- Là con nuôi và con rể của các Tướng Lê Ðức Anh, Ðặng Vũ Chính, có thể nói, không có Vũ Chính thì không có Chí Vịnh mà không có Chí Vịnh thì cũng không
thể có Vũ Chính (Vũ Chính lên được Tổng cục trưởng là nhờ vào vận động bằng tiền, bằng gái và sự dàn dựng, lừa lọc của Chí Vịnh và G7).
3- Các chương trình
mua sắm vũ khí, trang thiết bị cho Bộ Quốc Phòng đều được ghi là công của Vịnh. Mặc dù toàn bộ các khí tài này đều không đạt chất lượng và giá lại cao gấp nhiều lần nếu qua mua bán chính thức. Ðây là một trò lừa đảo, lưu manh chính trị tập thể, để củng cố vững chắc vị trí phe nhóm và chính sách gia đình trị của bố con Vũ Chính -
Chí Vịnh tại TC 2.
5- Trên cương vị lãnh đạo TC 2, Vịnh có quyền thế, phương tiện, điều kiện tiếp cận để mua chuộc hoặc khuynh đảo các cán bộ cao cấp của quân đội và Nhà Nước.
6- Trong số con ông cháu cha và
bạn bè, thân hữu được Vịnh tuyển vào TC2 vào những năm 93, 94, 95 và 96 đa số không qua một ngày
làm lính, không được học tập bản chất truyền thống oai hùng của quân đội mà được đặc cách đeo quân hàm thiếu tá, trung tá, và có trường hợp là thượng tá. Như vậy Vịnh vừa ban ân bố đức cho gia đình đồng bọn, đồng thời mua chuộc sự phục tùng tuyệt đối của đám bộ hạ. Qua đó chúng ta thừa hiểu là Vịnh đã thao túng, điều tiết được các quan lớn ở Cục cán bộ, Cục quân lực và Tổng cục chính trị như thế nào!
Từ các vấn đề nêu trên, đề nghị Bộ Chính trị, Ban Tổ Chức TW, Bộ Quốc Phòng, Quân Ủy TW.
1. Hãy loại bỏ tên trùm lưu manh, tham nhũng đầu sỏ, sâu dân mọt nước, tên tội phạm hình sự và chính trị nguy hiểm Nguyễn Chí Vịnh ra khỏi Ðảng Cộng Sản và Quân Ðội Nhân Dân Việt
Nam
.
2. Không cho phép tình báo quân đội TC2 được làm kinh tế, được thành lập doanh nghiệp "Vỏ Bọc "hoặc "Bình Phong" để hoạt động nghiệp vụ tình báo, không được lạm dụng cài cắm người vào các tổ chức, các công ty dân sự một cách tràn lan,
không cần thiết làm tốn kém ngân sách Nhà Nước.
3. Ðất nước Việt Nam có dân tộc Việt Nam anh hùng, có Ðảng Cộng Sản lãnh đạo vững mạnh, có Hiến Pháp...có đủ các cơ quan nghiệp vụ chuyên an lãnh thổ trong Bộ Quốc Phòng cũng như trong Bộ Công An.
TC2 là một tổ chức đứng trên luật pháp, đứng trên mọi cơ quan quyền lực Quốc Gia để lũng đoạn đất nước nhằm phục vụ thiểu số cá nhân vụ lợi, vì vậy chúng tôi, đại diện một số cán bộ, chiến sĩ từng nằm gai nếm mật của ngành tình báo xin kiến nghị Bộ Chính Trị, Ban Bí
Thư, Ban Chấp Hành TW, Ban Tổ Chức TW hãy giải thể TC2 và trả về vị trí Cục 2 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu/Bộ Quốc Phòng như trước đây.
Cũng cần biết Cục 2 đã từng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp bách chiến bách thắng của Quân Ðội Nhân Dân Việt
Nam
.
4. Sau đại hội, yêu cầu Quân Ủy TW tổ chức lại quân đội cho vững mạnh, trước hết là chấn chỉnh Cục 2 chọn người hiền tài phục vụ cho đất nước vì tình báo là ngành chịu nhiều hy sinh
gian khổ nhất mà cứu cánh là để Tổ Quốc quyết sinh.
Các chiến sĩ tình báo là những anh hùng vô danh, sống trong
bóng tối và chết trong bóng tối, quân hàm không mang mà nhiều khi quân lương
cũng không hưởng, lòng dũng cảm hy sinh vì nhiệm vụ đặt trên tình yêu Tổ Quốc nồng nàn và vô điều kiện!
Võ Ðồng Ðội (tức người nhà của Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp)
*Chú thích: (1) G7 là nhóm thư ký quyền thế của Bộ, và các
Thứ trưởng, Cục Trưởng thuộc các đơn vị Bộ Quốc Phòng.
=END=
4- Tham Luận
- Việt Nam: Sau Ngưỡng Cửa WTO
Tiến sĩ Mai Thanh Truyết
(Bài phát biểu tại Hội thảo VAST ngày 25/8/2007 ở
Santa Ana
College
)
Vào ngày 11 tháng 1 năm 2007,
Việt
Nam
chính thức gia nhập vào Tổ chức Thương
mại Thế giới tức World Trade Organization (WTO). Kể từ ngày nầy Việt Nam đã đi vào cuộc chơi chung
toàn cầu.
Cho đến nay, tháng 7, 2007,
vừa hơn sáu tháng trong bước đường hội nhập, quá trình tiếp cận và hội nhập trong khoảng thời gian ngắn ngũi nầy đã cho chúng ta thấy một số điểm còn tồn đọng cũng như những thách thức cho Việt Nam trong những ngày sắp đến. Bài viết nầy có mục đích nêu ra những vấn đề trên để chúng ta, trên căn bản lợi ích chung của toàn dân Việt Nam cùng trao đổi hay cùng đưa ra những ý kiến thiết thực và khoa học trong tiến trình Việt Nam hội nhập vào cộng đồng thế giới.
Nhận định tổng quát
Biến cố tan rã của Liên Xô đánh dấu sự phá sản của chủ nghĩa Cộng sản quốc tế, chấm dứt tình trạng đối đầu lưỡng cực giữa khối Tự do và khối Cộng sản; từ đó đưa đến sự hình thành một khuynh hướng chung của thế giới, mệnh danh là "toàn cầu hóa". Khuynh hướng nầy được xem như là một sinh lộ tất yếu của các nước đang phát triển và đặc biệt là các quốc gia đã một thời đặt mình thuộc khối Cộng sản quốc tế, nếu muốn tồn tại và phát triển trong tình hình mới.
Sự toàn cầu hóa bao
gồm toàn bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội, và được chú ý nhiều nhất là lĩnh vực kinh tế. Về lĩnh vực sau cùng nầy, nhu cầu toàn cầu hóa bao gồm sự hội nhập của các nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế quốc tế thông qua thương mại, đầu tư ngoại quốc qua những công ty quốc gia hay đa quốc gia, lưu lượng vốn ngắn hạn, lưu lượng công nhân quốc tế, lưu lượng công nghệ trao đổi, v.v...
Riêng đối với nước Việt Nam, kể từ sau ngày 30/4/1975, Việt Nam có thể được xem như hoàn toàn thống nhất về phương diện chính trị, địa dư, và xã hội. Lãnh thổ Việt Nam bị đảng Cộng sản thu về một mối, theo chế độ toàn trị do một Trung ương đảng gồm 160 Ủy viên chính thức, 21 Ủy viên dự khuyết, và 14 Ủy viên Bộ chính trị, tổng cộng 195 bộ óc "ưu việt" Việt Nam điều hành tất cả mọi sinh hoạt của 84,7 triệu dân (thốáng kê tháng 5/2006).
Ðứng về phương
diện phát triển kinh tế và xã hội trong 10 năm đầu tiên sau 1975, hầu như tất cả mọi người trong và ngoài nước đều đồng ý xác định sự thất bại hoàn toàn của một chính sách kinh tế tập trung rập khuôn
theo cộng sản Nga Tàu. Ðây là một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Việt
Nam
,
ngay cả so với thời phong kiến và thới Pháp thuộc... Mọi sinh hoạt đều bị đình trệ, nhiều vùng bị nạn đói đe dọa thường xuyên dù trước đây là vùng lương thực cho cả nước như Ðồng bằng sông Cửu Long. Giáo dục, y tế công cộng hoàn toàn bị bỏ ngõ...
Ðứng trước nguy cơ diệt vong kề cận, năm 1986, CS Việt Nam không thể chọn con đường nào khác hơn là phải áp dụng một chính sách kinh tế mở, nhưng vẫn còn
"bịn rịn" chưa mở hoàn toàn nên đã đưa ra chiêu bài "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" nửa vời. Nhưng nhờ đó, người dân bắt đầu được nới lõng hơn trong vòng kềm kẹp, nông dân được cấp quyền xử dụng mảnh đất của mình dù là tạm bợ để tự khai thác và tự cứu vãn đời sống kinh tế của gia đình. Những năm tiếp theo sau đó, nguy cơ tuy vẫn còn đầy rẫy khắp nơi, tình trạng xã hội và kinh tế chung vẫn còn nhiều gập ghềnh, chập chững trên bước đường phát triển và hội nhập vào thế giới bên ngoài.
Mãi đến tháng 12 năm 2001,
khi Hiệp ước Thương mãi hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thành hình (US-VietNam Bilateral Trade Agreement), kinh tế Việt Nam tương đối hồi sinh và có thể nói đây là bước mở đầu tiện của VN trên tiến trình hội nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Cũng cần nói
thêm về những thông tin trao đổi kinh tế hai chiều giữa VN và HK trong giai đoạn trước đây. Năm 1993, VN hoàn toàn không xuất cảng hàng hóa vào nội địa HK; ngược lại, VN nhập cảng 7 triệu Mỹ kim thiết bị từ HK. Sau ngày 3 tháng 2, 1994, Tổng thống
Clinton, HK đã ra quyết định bãi bõ lịnh cấm vận thương mại cho VN; kể từ đó, VN bắt đầu tăng dần việc xuất cảng sang HK lên đến trị giá 50,5 triệu cho năm nầy.
Bảy năm sau khi hiệp ước trao đổi hai chiều ký kết, hàng hóa VN gồm thực phẩm, hàng may mặc, dầu thô, giày da, sản phẩm gỗ nội thất ồ ạt vào thị trường HK, và lượng hàng hóa tiếp tục tăng mãi, từ 1 tỷ Mỹ kim năm 2001, lên đến 5,9 tỷ, năm 2005. Ngược lại, HK chỉ xuất cảng độ 1,2 tỷ vào VN trong năm 2005. gồm dụng cụ y khoa, máy móc kỹ thuật và dụng cụ hàng không.
Ðây cũng là những chỉ dấu ban đầu cho VN lần lần thực hiện tiến trình gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới. Và Việt Nam đã chính thức gia được chấp thuận nhập vào cuộc chơi toàn cầu nầy vào ngày 7 tháng 11 năm 2006.
*Tổ chức Thương mại Thế giới
Tổ chức Thương
mại Thế giới hay World Trade Organization-WTO, có trụ sở đặt tại Thụy Sĩ đã được thành lập chính thức vào ngày 1/1/1995 do các quốc gia thành viện ký tại thành
phố
Marrakesh
,
Marocco. Tính đến nay, Tổ chức nầy tập hợp được 149 quốc gia thành viên nhắm vào những mục tiêu
sau đây:
- Quy định những căn bản pháp lý
làm nền tảng cho mọi trao đổi thương mãi quốc tế;
- Tổ chức là diễn đàn đàm phán, thỏa thuận, thương
lượng về tất cả mọi dịch vụ thương mại giữa các quốc gia thành viên.
Cũng từ ngày
1/1/1995, VN đã nộp đơn xin gia nhập vào tổ chức trên và trở thành quan sát viện của tổ chức. Nhóm công tác WTO cũng đã được thành lập và có nhiệm vụ cứu xét đơn xin gia nhập của VN.
Tính đến nay, VN đã trả lời trên
2.600 câu hỏi từ các thành viên, và đã kết thúc đàm phán
song phương với 21 quốc gia.
Ðối với HK, văn kiện chính
thức giữa hai bên đã được ký kết vào ngày 31/5/2006 thỏa thuận trên
nguyên tắc về khả năng tiếp cận thị trường song phương; từ đó sẽ giúp hai bên tái lập hàng rào thuế quan cho
những mặt hàng kỹ nghệ và nông phẩm, cùng dịch vụ.
Kết quả là hàng
hóa xuất cảng từ HK vào VN như trang thiết bị xây dựng, dược phẩm, phi cơ và các bộ phận rời bảo trì sẽ chịu thuế suất là 15% hay ít hơn. Về dịch vụ, VN cũng đã cam kết mở cửa một số lãnh vực cấm kỵ từ trước như viễn thông và viễn thông vệ tinh, lãnh vực tài chính, ngân hàng, và năng lượng cho HK nhún tay vào.
Một khi đã vào
WTO, VN cần phải tuân thủ những tính chất pháp trị như: 1- giải quyết tranh chấp; 2- giảm bớt vai trò của mậu dịch quốc doanh; 3- hủy bỏ những giới hạn nhập cảng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài qua quyền thương mại; 4- hủy bỏ những quy chế kinh tế phi thị trường. Ngược lại, HK sẽ áp dụng kinh tế phi thị trường trong các vụ kiện chống phá giá cho đến khi VN ra khỏi nền kinh tế phi thị trường. Thời gian chuyển tiếp cho chính sách nầy là 12 năm sau khi VN gia nhập vào WTO. Và sau cùng, VN phải tuân thủ quy tắc và luật bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Ðể có một khái niệm về kết quả của việc gia nhập vào WTO
trong những năm vừa qua của các quốc gia thành viên, một số báo cáo sau đây cho thấy khuynh
hướng cũng như thành quả của WTO ngày càng bị thu hẹp lại. Vào năm 2003, trong kỳ họp WTO ở Cancun, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa
ra những số liệu về thương mại toàn cầu qua dịch vụ trao đổi trên thế giới là 832 tỷ Mỹ kim, trong lúc đó 539 tỷ nằm trong các sinh hoạt giữa các quốc gia đang phát
triển. Tuy nhiên, tổng kết năm 2005 cho thấy lợi ích của WTO giảm xuống còn 287 tỷ cho thế giới, trong đó chỉ còn 90 tỷ trao đổi giữa các quốc gia đang phát triển dù số thành viên của các quốc gia nầy dự phần vào 90% tổng số thương mại toàn cầu.
Một khi đã là
thành viên của WTO, Việt Nam cần phải tuân thủ các cam kết được ghi trong Bảng cam kết dịch vụ gồm 3 phần: 1- cam kết chung; 2- cam kết cụ thể; 3- và danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc. Trong bảng cam kết dịch vụ, có đề cập đến các quy định vế chính sách đầu tư, hình thức thành lập doanh nghiệp, thuê đất, các biện pháp về thuế khóa, và trợ cấp doanh nghiệp trong nước. Trong mỗi dịch vụ lại còn có nhiều quy định cụ thể cần phải tuân thủ như viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng, vận tải v.v...
Và sau cùng, mỗi thành
viên tùy theo điều kiện hiện hữu của từng quốc gia có thể đề nghị mức độ cam kết ở bốn tầng bậc khác nhau. Ðó là: cam kết toàn bộ, cam kết kèm
theo những hạn chế, không cam kết, và không cam kết vì không có tính khả thi kỹ thuật.
Như vậy, trong điều kiện Viêt
Nam
hiện tại, điều rõ nét
nhất là Việt
Nam
chỉ có khả năng cam kết theo từng dịch vụ ở những điều cam kết thứ hai, ba,
và bốn mà thôi do những khía cạnh thực tế của Việt
Nam
sau sáu tháng hội nhập.
Tình trạng phát triển của Việt
Nam
hiện tại
Vào ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính
thức được chấp thuận vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như vào cuối tháng 11/2006 vừa qua, quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn các điều luật trên. Và Việt Nam đã chính thức nhập cuộc ngày 11 tháng giêng năm 2007 rồi.
Vấn đề nơi đây là cần ghi nhận đứng đắn nội lực thực tế của VN đứng trước vận hội mới này, nghĩa là VN trao đổi, xuất cảng ra thế giới bên ngoài những gì? Và ngược lại phải nhập cảng từ ngoại quốc những sản phẩm nào? Giải đáp hai câu hỏi trên, chúng ta có thể hình dung được thế mạnh và yếu của VN trong tương lai. Từ đó, có thể dự phóng được một viễn ảnh cho đời sống người dân trong những ngày hậu WTO.
Tính đến ngày hôm nay, VN đã xuất cảng đi khắp nơi trên thế giới một số lượng đáng kể về trọng lượng, nhưng ngược lại thu hồi một số ngoại tệ không đáng kể so với lượng hàng bán ra. Ðó là nông phẩm, thực phẩm, tôm
cá, các mặt hàng gia công như quần áo, giày da, xẽ gỗ, dầu thô và một số mặt hàng tiểu thủ công nghệ.
Ngược lại, VN phải nhập cảng xăng dầu và
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, hóa chất, phân bón, thực phẩm "cao cấp" như thịt gà, bò....., năng lượng, viễn thông, ngân hàng..... Ðây là những mặt hàng nhẹ về cân lượng nhưng cần phải chi ra một số lớn ngoại tệ. Do đó, VN luôn luôn đối mặt với sự thâm thủng ngân sách cho ngoại thương
từ trước đến nay.
Thêm nữa, những mặt hàng xuất cảng của VN chỉ để giải quyết cuộc sống của hàng triệu nông dân hay công nhân với mức lương
tối thiểu- trong khi đó cuộc sống của nông dân và công nhân VN ngày càng tệ hại hơn, mặc dù VN cố gắng gia tăng mức sản xuất hàng năm. Lấy thí dụ về ngành
may mặc hiện tại. Một công nhân Việt Nam làm việc 12 giờ/ngày, sáu ngày/tuần lãnh được từ 600 đến 800 ngàn Ðồng VN/tháng, tương đương 37 đến 50 Mỹ kim. Trong lúc đó, một thợ may Việt
Nam
tại Mỹ làm việc tám giờ/ngày với mức lương
tối thiểu quy định là 7,75 Mỹ kim/giờ, tức 62
US
$/ngày,
hơn xa một tháng lương của một công nhân cùng ngành tại VN.
Tại thị trường nội địa, hiện tại VN đang làm chủ vì lợi thế sân nhà, và một số ngành nghề còn độc quyền và không cho người ngoại quốc tham dự. Do đó, mức cạnh tranh chưa hề được đặt ra, và nếu có, chỉ là những cạnh tranh giữa những nhà kinh doanh trong nước mà thôi.
Một khi cánh cửa WTO mở toang,
VN sẽ không còn lý do nào để cấm đoán ngoại quốc tham gia trực tiếp vào thị trường nội địa của VN. Từ đó, mức cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn và chưa chi thua thiệt có thể chắc chắn về phần doanh thương VN qua sự chênh lệch về nguồn vốn, kỹ thuật, cung cách khuyến mãi, và thị hiếu của người tiêu dùng VN.
Xin đan cử một thí dụ điển hình
qua hình thức thương mại đơn giản nhất là hệ thống "siêu thị": Siêu thị Walmart (Hoa Kỳ) có mức doanh thu gấp 5-6 lần tổng sản lượng của VN, có thể tiêu diệt các siêu thị nội địa trong cung cách thu mua với giá rẻ hơn vì họ có thể chấp nhận không lời, hoặc lỗ trong thời gian đầu vì có nhiều tiền vốn. Thêm nữa, họ có khả năng nhập thực phẩm và hàng hóa từ ngoại quốc vào - điều trên đây càng nguy hiểm hơn vì nó có thể giết chết nhiều dịch vụ chăn nuôi và trồng tỉa của người dân. Một lợi thế nữa của các siêu thị ngoại quốc là dịch vụ thanh toán thường chỉ giải quyết sau 90 ngày nhận hàng, chính điều này khiến cho những nhà cung cấp VN sẽ không còn khả năng tài chính để trả nợ cho ngân hàng sau mỗi thời vụ.
Trước mắt, chúng
ta thấy rõ những kỹ nghệ của VN liệt kê sau đây đang đi dần vào chỗ bế tắc:
- Kỹ nghệ đường hiện nay hoàn toàn bị phá sản vì không cạnh tranh được so với đường Trung Quốc và Thái Lan có phẩm chất tốt hơn và giá
rẻ hơn. Việc này kéo theo sự bế tắc của nông dân trồng mía.
- Xuất cảng thủy sản và nông
phẩm hiện đang bị nhiều cản ngại do an toàn về thực phẩm không đủ tiêu chuẩn, do dư lượng kháng sinh và sự hiện diện của các hóa chất phụ gia trong thực phẩm. Ðiều nầy đã bị nhiều quốc gia trả về lại nguyên xứ trong những đợt xuất cảng gần đây, nhất là Hoa Kỳ, khách hàng lớn nhất của Việt
Nam
.
- Chăn nuôi gia súc ở VN cũng đang đứng trước cơn phá sản do kỹ thuật chăn nuôi còn nhiều khiếm khuyết. Từ đó, việc nhập cảng cánh và đùi gà Mỹ hiện tại là một dịch vụ đem nhiều lợi nhuận lớn cho một số cán bộ có quyền. Vì cánh và đùi gà Mỹ giá rất rẻ $0.2/bls (vì người Mỹ không thích ăn), khi nhập vào VN có thể bán ra $1,5/kg.
- Các kỹ nghệ đơn
giản khác như xe đạp, dụng cụ làm bếp, trang trí nội thất sẽ không còn khả năng cạnh tranh với hàng TQ nếu chưa nói đến các nhà sản xuất lớn như ở HK, Pháp, Ý..... Những mặt hàng rất bắt mắt và được người VN ưa chuộng từ lâu. Chính tâm lý ưa chuộng hàng
ngoại quốc của người VN sẽ giết chết công kỹ nghệ VN khi VN gia nhập vào cuộc chơi chung. Và mặt trái của WTO có thể biến VN thành một thị trường tiêu thụ của quốc tế hơn là một thị trường sản xuất.
Một số rào cản VN đang đối mặt trước ngưỡng cửa WTO được tiếp tục trình bày sau đây cũng là những gợi ý mà VN cần lưu tâm. Ðó là những cản ngại của khu vực quốc doanh, ngành ngân hàng, khả năng vận chuyển đường biển, ngành viễn thông di động và một số phản ứng tâm lý của người dân VN trước tiến trình toàn cầu hóa.
Thách thức trong khu vực quốc doanh
Một trong nhiều yêu cầu để VN gia nhập vào WTO là VN phải minh bạch trong việc kiểm toán chi thu của quốc gia. Do đó, lần đầu tiên trong lịch sử đảng, CSVN đã đưa ra bản báo cáo từng phần ngân sách nhà nước năm 2005. Theo đó, riêng trong lãnh vực quốc doanh,
19 tổng công ty và ngân hàng quốc doanh trên 4.447 quốc doanh toàn quốc, cho thấy kết quả kiểm toán
hoàn toàn đưa đến thua lỗ và công ty quốc doanh đã làm kinh tế theo một chính sách "phi kinh tế". Sau đây là vài
con số thua lỗ cũa các công ty quốc doanh trong năm 2005: Ngành dệt may lỗ 328 tỷ Ðồng; ngành giấy lỗ 199 tỷ Ðồng; ngành
lương thực lỗ 183 tỷ Ðồng (1 tỷ Ðồng tương đương 60.000 Mỹ kim). Tổng số nợ của 16 doanh nghiệp các ngành kễ trên là 47,000 tỷ đồng, tương đương với 80% tổng tài sản của các công ty. Do đó, những công ty trên hoàn toàn không còn khả năng thanh toán phần nợ và lỗ lã.
Hiện tại, con số các công
ty quốc doanh biến thành cổ phần hóa (tức tư nhân hóa) là 3.830. Trong đó vốn nhà nước là 49%, công nhân viên, cán bộ trong doanh nghiệp đóng góp
26%, và vốn tư nhân đầu tư ngoài doanh nghiệp 25%. Với tỷ lệ và thành phần cổ đông như trên, thì trách nhiệm hay linh hồn của công ty
vẫn là nhà nước hay quốc doanh mà thôi. Và đối với việc kinh
doanh lỗ lã trên, nhà nước VN lại phải gánh chịu hay "Ðất nước VN" qua hơn 84 triệu dân, phải cật lực lao động để trả nợ? Và một khi đã "giải tư" theo cung cách vừa kể, công ty tư doanh cổ phần sẽ thuộc về ai? và
ai sẽ chịu trách nhiệm? Do đó, qua việc tư nhân hóa để thỏa mãn yêu cầu cũa những luật định WTO, vô hình chung, VN đã biến các
công ty quốc doanh thành một loại công ty đặt dưới cơ chế bao cấp khác.
Ngoài ra, đừng quên rằng, đã từ hơn 30 năm qua ở VN, các
cơ chế làm kinh tế bao cấp đã đưa đất nước vào ngõ cụt. Có thể nói nhận định gần đây của ông Ðào Xuân Sâm, ban nghiên cứu của Thủ tướng hiện tại, đã nói lên một cách rốt ráo vấn đề nầy: "Trong hơn 10 năm qua, song song với việc tư doanh đổi mới và tăng trưởng thành công, khu vực kinh tế nhà nước trên thực tế đã trở lại cơ chế cũ tập trung quan liêu - bao cấp, có khác chăng là
trong nền kinh tế thị trường "bao cấp hiện vật" chuyển thành 'bao cấp tài chính'". Và cơ chế bao cấp này cũng chính
là mọt hình thức của cơ chế xin-cho, đã trở thành miếng đất màu mỡ cho nạn tham nhũng lộng hành trong khu vực nhà nước, từ đơn vị kinh tế cơ sở đến các cấp cao nhất của chính quyền".
Như vậy, VN làm thế nào và bằng cách
nào để thực hiện được lời T.T Nguyễn tấn Dũng mới vừa tuyên bố là trong vòng 5 năm tới, VN bảo đảm cổ phần hóa 100% doanh nghiệp quốc doanh?
Thách thức trong ngành ngân hàng
Cũng theo quy định của WTO, VN phải mở cửa ngân hàng, chấp nhận dịch vụ ngân hàng ngoại quốc trong giai đoạn chuyển tiếp (năm năm sau khi gia nhập) có thể đầu tư tối đa 30% tổng số vốn của ngân hàng. Một khi VN chính thức vào cuộc, tư nhân nào có thể mua cổ phần còn lại (tức 70%) của một ngân hàng ngoại quốc, vốn dĩ có nguồn vốn lớn và bằng hệ thống tiền tệ cứng (hard currency), trong lúc đó tư nhân, hay tập thể tư nhân VN
chỉ có khả năng đóng góp bằng những số vốn nhỏ và thế chấp, cũng như chuyển hóa cơ sở vật chất thành tiền. Từ đó, dù công ty ngoại quốc không chiếm đa số tuyệt đối, nhưng vẫn có khả năng khuynh đảo thị trường bằng những thủ thuật kinh tế tư bản, và VN sẽ chịu một sức ép không nhỏ về vấn nạn này.
Theo thống kê mới nhất (2006),
tín dụng của ngân hàng ngoại quốc dành cho Việt
Nam
là 14% trên số tổng dư nợ cho vay
là 60 ngàn tỷ đồng, tương đương với 360 tỷ Mỹ kim. Với sự hiện diện của ngân hàng ngoại quốc, liệu ngân hàng Việt
Nam
có học được cung
cách quản lý, cùng những cơ hội phát triển về các mặt sản phẩm, vế những mô hình mới, hay về năng lực chuyên môn cho nhân sự v.v...không? Chính những yếu tố nầy sẽ góp phần vào việc hoạt động lành mạnh của ngân hàng.
Trở lại các Công ty ngân
hàng VN, một trong những lý do các doanh nghiệp quốc doanh
thua lỗ mà vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay, là việc nhà nước tiếp tục bơm tiền bù lỗ thông qua các ngân hàng quốc doanh. Hay nói cách khác, các
ngân hàng phải chịu sức ép từ nhà nước, bị bắt buộc tiếp tục cho công ty quốc doanh vay căn cứ theo chủ trương chính trị hơn là căn cứ theo tình trạng kinh tế. Và sau cùng, ngân hàng được nhà nước tái cấp thêm những ngân khoản bổ sung. Ðó là trường hợp của bốn ngành Ngân hàng Công thương, Ngân hàng ngoại thương,
Ngân hàng Ðầu tư & Phát triển, Ngân
hàng Nông nghiệp & Phát triển. Do đó, việc cổ phần hóa ngân hàng quốc doanh hoàn toàn bế tắc. Và việc chuyển doanh
nghiệp quốc doanh sang chế độ hoạt động của một công ty trách nhiệm hữu hạn là một việc làm
không tưởng, ít ra trong những năm sắp tới vì những yếu tố sau đây: 1- Người quản lý ngân hàng hiện tại vẫn còn giữ não trạng càng cải tổ chậm càng có lợi, do đó, họ cố gắng trì hoản công việc nầy; 2- Một khi có cổ phần hóa, "những ông chủ ngân hàng" sẽ bị chi phối và giám sát do các nhóm lợi ích khác, do đó, quyền hạn của họ sẽ bị hạn chế, kéo
theo mức thu nhập cá nhân của họ sẽ bị giảm đi vì không còn khả năng móc ngoặc hay làm những điều sai trái; 3- Các cấp quản lý
trong đảng sẽ mất hẳn quyền lực một khi ngân hàng đã được cổ phần hóa toàn phần.
Thách thức về đầu tư
Một khi đã vào
WTO, điều đó không có nghĩa là thế giới sẽ tuôn tiền vào đầu tư ở Việt Nam để cho con tàu Việt Nam vượt đại dương đi khắp năm châu, dù cho điều kiện phát triển ở Việt Nam hiện tại vẫn còn là điều kiện tối ưu cho đầu tư ngoại quốc. Lý do là Việt
Nam
hiện chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho việc phát triển. Ðó là hạ tầng cơ sở cần có để phát triển trong thế toàn cầu hóa ngày nay.
WTO sẽ không ảnh hưởng trực tiếp vào mỗi người Việt một sớm một chiều được qua mức tăng trưởng của lợi tức đầu người hàng năm. Ðó chỉ là những con số biểu kiến, nói lên mức đầu tư của ngoại quốc trong các chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở (nếu có) như năng lượng, cầu cống, đường xá, và tất cả các nhu cầu kiến trúc quốc gia cần thiết cho sự phát triển xã hội.
Do đó, trong những năm đầu, nếu thực sự có mức đầu tư ồ ạt của thế giới, người dân chưa ắt hản hẳn? có được một đời sống kinh tế khá hơn.
Và, với cung cách làm ăn hiện tại của Việt Nam
trong lĩnh vực đầu tư, điều cần nhất là phải thay đổi não trạng sơ cứng, suy nghĩ mang lợi trước mắt mà không nhìn hại ở sau lưng (phát triển không bền vững, không bảo vệ môi trường chẳng hạn) bằng cung cách làm ăn thật thà, làm thật, nói thật, và sống thật với nhau. Làm như thế mới hy vọng gây được niềm tin cho đối tác đầu tư ngoại quốc, và họ sẽ dễ chấp nhận trong điều kiện đôi bên cùng có lợi (win-win situation).
Một vài thí dụ căn bản trong tương
lai là, trong kỹ nghệ dệt may chẳng hạn, nếu để nhà đầu tư ngoại quốc tin tưởng và hợp tác, họ sẽ mang nguồn vốn, máy móc, công nghệ dây chuyền sản xuất mới cùng
cung cách quản lý mới. Từ đó, mức sản xuất dĩ nhiên sẽ tăng bội phần và mang theo lợi nhuận về cho cả hai phía đối tác. Và hơn nữa, người công nhân lần lần sẽ được cải thiện trong lao động như làm ít giờ hơn theo tiêu chuẩn lao động thế giới, có đầy đủ chương trình bảo hiểm xã hội, và sau cùng đời sống kinh tế của công nhân sẽ được nâng cao do mức đãi ngộ của công ty đã điều chỉnh một khi đã có lời nhiều.
Một điểm quan trọng cần nêu ra đây là nhu
cầu cần đầu tư ngoại quốc trong lãnh vực môi trường. Theo cam kết về dịch vụ môi trường khi Việt
Nam
gia nhập vào WTO là, Việt
Nam
sau bốn năm, dịch vụ môi trường có thể có được 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động ở Việt
Nam
.
Một điều rõ ràng
và chắc chắn là lối giải quyết những vấn nạn môi trường hiện tại của Việt Nam chỉ làm tăng thêm nguy cơ ô nhiễm ở cả ba dạng của môi trường không khí, đất, nước mặt và nước ngầm qua sức tàn phá môi trường do phát triển và không cân bằng việc bảo vệ môi trường.
Cho đến nay, những nhà đầu tư ngoại quốc trong lĩnh vực nầy chỉ có thể cấp vốn không quá 51% của dự án, và công ty nước ngoài phải chấp nhận tối thiểu là 20% cán bộ quản lý và chuyên môn người Việt
Nam
.
Ðiều nầy là một trong những yếu tố chính làm tắt nghẽn nhiều dự án cải tổ môi trường như thiết lập các nhà máy xử lý nước rỉ của rác sinh hoạt và phế thải kỹ nghệ. Bao nhiêu dự án đều bị thất bại nửa chừng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hai nguyên nhân chính là do cung cách
quản lý tồi và nạn tham nhũng. Dự án kinh Nhiêu Lộc đã tiêu tốn ngân sách trên 200 triệu Mỹ kim vào năm 2000,
và hiện tại, năm 2007, cũng trên 200 triệu khác bị thất thoát do các cty Ðại Hàn và Ðài Loan móc ngoặt vơi tham nhũng. Mặc dù đầu tư ngoại quốc rót vào cho các dự án trên hàng trăm triệu Mỹ kim
trong những năm gần đây như dự án Bãi rác Ðông Thạnh, Gò cát I và II, III, và IV, dự án khu
liên hiệp Ða Phước v.v...tất cả đã để lại và làm cho môi trường ngày càng xấu đi.
Ðây mới chính là một thách
thức lớn nhất cho Việt
Nam
.
Nói một cách rốt ráo, Việt Nam cần phải mở rộng cánh cửa để cho nhà đầu tư ngoại quốc trực tiếp đầu tư nguồn vốn, thiết bị, quản lý và vận hành nhà máy để rối từ đó, Việt Nam có điều kiện học hỏi một cách chính xác và thực tế hơn qua
kinh nghiệm của những chuyên gia nước ngoài.
Thách thức trong cải cách hành chánh
Hệ thống hành chánh chánh
thức của Việt Nam hiện tại gồm ba cơ chế khác nhau: - cơ chế đảng ủy gồm khoảng 270 ngàn cán bộ; - cơ chế công nhân viên chức gồm 210 ngàn nhân viên; - và cơ chế tại địa phương gồm cả đảng ủy và nhân viên, có độ 280 ngàn. Có thể nói cả ba cơ chế tạo thành một thủ tục hành
chánh trùng lấp, và chồng chất lên nhau ở nhiều giai đoạn. Thủ tục từ đó trở nên phức tạp làm cho người dân khó tiếp cận trực tiếp và được giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng.
Tất cả vì cung cách đùn việc, chuyển việc qua những nhân sự khác vì
sợ trách nhiệm cũng có. Cung cách cường quyền cũng thể hiện nhiều mặt nơi đây, đôi khi vượt khỏi quyền hạn hay luật định của cán bộ có trách nhiệm quyết định sự việc. Tất cả chỉ vì cơ chế không rõ ràng và sự thiếu minh bạch trong khi giải quyết các thủ tục hành
chánh cho "ông chủ của đất nước" là người dân đen.
Vào đầu tháng 4,2007, tại Hà Nội, ông
Scott Jacobs, Chủ tịch hảng tư vấn Jacobs&Associates, trong hai ngày hội thảo dưới đề tài: "Ðơn giản hóa thủ tục hành chánh: Kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý chính sách cho Viêt Nam" do Viện Quản lý Kinh
tế trung ương tổ chức. Ông đã trình bày một tham luận về: "Kinh nghiệm toàn cầu về cải cách thể chế và quản trị kinh tế trong nền kinh tế WTO", trong đó, ông đã phân tích cải cách thể chế (regulatory reform) tại nhiều nước trên thế giới, cũng như giới thiệu một số mô hình cải cách như mô hình "máy xén" (guillotine). Các quy định trong mô hình kinh tế mở nầy cần phải có để nâng cao năng suất và cải cách thể chế để có thể đạt được mục tiêu tạo ra một thể chế chi phí
thấp, ít rủi ro đồng thời bảo đảm các lợi ích môi trường và an toàn sức khỏe.
Muốn đạt các mục tiêu
trên, ông nói tiếp, Việt Nam cần phải sàn lọc các quy định hiện hành, có cơ chế phản biện và tham vấn tốt để bảo đảm các quy định mang lại phẩm chất cao, xây dựng các thể chế tốt để bảo đảm cơ sở hạ tầng, và sau cùng, về nhân sự cần phải được phân nhiệm rõ ràng, cụ thể, và không thể thiếu vắng tính minh bạch trong nhiệm vụ.
Việt
Nam
cũng vừa đưa
ra Ðề án 30, tức là Ðề án "Ðơn giản hóa thủ tục hành chánh trên các lĩnh vực quản lý nhà
nước giai đoạn 2007- 2010" do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký duyệt.
Tuy nhiên, mặc dù có nhiều chuẩn bị trên giấy tờ như đã nói
trên, nhưng trên thực tế, cung cách quản lý của Việt
Nam
vẫn còn tồn đọng nhiều nan đề cần phải giải tỏa. Ðược biết, vào cuối thập niên 1980, Ngân hàng Thế giới đã cử chuyên
viên đến nghiên cứu việc cải cách hành chánh thí điểm ở tỉnh Quảng Bình
trong bốn năm. Nhưng kết quả sau cùng chỉ là con số không vì các báo cáo, đề nghị cải tổ không được Việt Nam lưu tâm đến. Một thí dụ khác cho công cuộc cải các hành chánh thất bại khác của Việt Nam là
vào năm 1999, Ðề án 112 được bắt đầu thực hiện mạng lưới giữa các Bộ, Ngành ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý. Ðề án đã tiêu tốn trên
4.000 tỷ Ðồng Việt Nam, tương đương 2,4 tỷ Mỹ kim. Và mới đây, vào tháng tư, cũng chính Nguyễn Tấn Dũng đã ký thông tư chấm dứt Ðề án vì thất bại hoàn toàn cũng như không quy trách nhiệm và xử phạt ai cả! Con số 2,4 tỷ Mỹ kim đã tan
thành mây khói.
Ðể bù lại việc nầy, ngày
21 tháng 5 vừa qua, Nguyễn Tấn Dũng vừa ký kết với Steve Ballmer, TGÐ Ðiều hành Cty Microsoft một hợp đồng mua bán quyền xử dụng phần mềm nhằm thúc đẩy công nghệ thông tin trong lãnh vực hành chánh và ngân hàng. Lại một chi tiêu khổng lồ mới sẽ làm tăng số nợ ngoại quốc Việt Nam đã phải bắt đầu trả một phần vốn và tiền lời mỗi năm trên 2 tỷ Mỹ kim.
Vì vậy, trong hiện tại, muốn thực sự cải cách, cần phải thanh
toán hệ thống hai chính quyền đang tồn tại từ trung ương đến địa phương. Số nhân viên của đảng ủy trong cơ chế chính quyền cao hơn số nhân viên hành chánh trên toàn quốc, làm sao có thể có được một sự vân hành quốc gia ổn định nếu chỉ phải cải tổ hành chánh trong giới công nhân viên chức mà
thôi? Nói về ngân sách, dù đây là một bí mật quốc gia, nhưng chỉ cần nhìn kỹ lại chúng ta sẽ thấy đảng đang sở hữu và quản lý một khối lượng chi tiêu và tài sản khổng lồ so với tổng ngân
sách quốc gia.
Thêm nữa, làm sao có thể thực hiện được cải cách hành chánh khi nền tư pháp không được độc lập, các tòa án chỉ xử theo quyết định của cấp đảng ủy mà thôi.
Và điều sau cùng, quân đội và công an phải là công cụ chung và trung thành chỉ với tổ quốc và chỉ phục vụ cho nhân
dân. Hai cơ quan nầy không thể nào phục vụ và trung thành với đảng cộng sản được.
Do đó, Việt
Nam
cần thực hiện các cải cách kể trên trước khi nói đến cải cách hành chánh để hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa ngày nay.
Thách thức trong vần đề công nhân và chuyên viên
Căn cứ theo lý thuyết kinh tế Clarke,
sự phát tiển của một quốc gia tiến hành qua ba giai đoạn: giai đoạn phát
triển nông nghiệp, phát triển công nghiệp và phát triển dịch vụ. Tại các quốc gia kỹ nghệ cao, phát triển công nghệ và dịch vụ rất cao và chiếm tuyệt đại đa số. Như Hoa Ky chẳng hạn hiện tại chỉ có khoảng một triệu nông dân (0,30% dân số) cung cấp lương
thực và thực phẩm cho toàn quốc và viện trợ khắp nơi trên thế giới.
Kể từ khi bắt đầu mở cửa để phát triển, hiện tại Việt Nam có 90 khu chế xuất (KCX) hay khu công nghiệp (KCN) và dự kiến vào năm 2010 sẽ có thêm
60 KCX và KCN mới. Do dó vấn để đặt ra ở đây là việc đào tạo và cung ứng đủ số lượng công nhân trong những ngày sắp tới.
Riệng tại Sài Gòn
chẳng hạn, hiện có 15 KCX, trong đó có trên 1.000 doanh nghiệp đang hoạt động thu dụng 210.000 lao động. Ðến năm 2010,
Sài Gòn dự kiến tăng thêm 300 ngàn lao động có tay nghề kỹ thuật và
chuyên môn cao như cơ khí, điện, điện tử, công nghệ thông tin v.v...
Sự chuyển dịch qua
giai đoạn công nghiệp đòi hỏi thêm lao động chuyên môn, nhưng tình trạng ở Việt
Nam
hiện tại, có thể nói hầu hết lao động là lao động phổ thông (95%). Vấn đề đào tạo thêm lao động sẽ là một vấn đề lớn cho Việt
Nam
trong những năm sắp tới.
Tệ trạng luôn luôn thừa lao động tay chân, nhưng lại thiếu lao động có tay nghề cao, vì Việt Nam chưa thực sự chuẩn bị cho việc huấn nghệ lao động thích ứng với những đề án đấu tư phát triển mới: vì vậy, thu nhập nhiều đầu tư ngoại quốc, xây dựng thêm nhiều nah máy sản xuất, nhưng lại thiều lao động kỹ thuật cũng là một khiếm khuyết lớn của Việt Nam. Thách thức nầy là một trọng tâm để Việt
Nam
suy gẫm và chuẩn bị trước khi phải đối mặt với việc con trâu đứng trước cái cày.
Thêm một tầng lớp lao động mới nữa cũng cần phải đề cập nơi đây là giới luật sư. Việt Nam mới vừa gia nhập vào WTO mà đã có trên 20 vụ kiện trước mắt về bán phá giá và tình trạng nầy chắc chắn sẽ tăng thêm từ đây đến cuối năm vì những tin tức dồn dập về các mặt hàng xuất cảng của Việt Nam bị nhiễm trùng, chứa dư lượng hóa chất độc hại cao, ghi sai thương hiệu (giả dối),... do đó các vụ kiện theo sẽ không thể tránh được. Hiện tại, lực lượng luật sư chuyên về mặt tranh chấp thương mại hầu như chưa xuất hiện. Với hiện trạng trên, chắc chắn Việt
Nam
sẽ phải thua thiệt trong
những vụ kiện sắp tới đây.
Ðào tạo một luật sư chuyên
môn trong lãnh vực thương mại quốc tế không phải là câu chuyện một sớm một chiều và cần phải đào tạo với một số lượng lớn để đáp ứng với tình thế mới.
Thách thức trong khả năng chuyển vận hàng hóa
Việc gia nhập vào WTO đòi hỏi quốc gia thành viên phải có tiềm lực về chuyển vận hàng
hóa hai chiều. VN đã chuẩn bị vấn đề này như thế nào? Các thông tin dưới đây tương đối đầy đủ để mô tả tình trạng vận chuyển đường biển của VN.
Chỉ bốn ngày sau khi được bãi bỏ cấm vận năm 1994, công ty chuyển vận hàng hóa APL, Hoa kỳ đã bắt đầu hoạt động trở lại cho các tuyến đường Mỹ - Việt Nam. Ðây là một đại công ty trong dịch vụ chuyển vận trên 50 quốc gia. Từ năm 2004, APL đã thành lập thêm hai chi nhánh là Vietnam China Express (VCX) và Haiphong
China Express (HCX). Những dịch vụ này đã rút ngắn thời gian vận chuyển trong những năm trở lại đây: Từ Sài Gòn đến Seattle chỉ còn 15 ngày, và Saigòn đến Los Angeles là 17
ngày. Còn Hải Phòng đến Seattle và
Los Angeles
là 13 và 15 ngày. Ưu điểm này đã làm giảm giá
thành và tăng thêm lượng hàng hóa giao thông do việc gia tăng lượng chuyển vận đi-về.
Trong khi đó, tình trạng vận tải đường biển của VN hoàn toàn không đáp ứng nhu cầu vận chuyển viễn liên
này. Theo thống kê, VN có trên 1000 tàu với tổng trọng tải khoảng 3,5
triệu tấn, trong đó chỉ có hơn 300 tàu hoạt động trên các tuyến đường quốc tế trong khu vực. Các tàu vận chuyển VN có trọng tải dưới 20,000 tấn, cho nên không có khả năng giải quyết mức trao đổi hàng hóa đường biển. Và bất lợi hơn nữa là giá thành vận chuyển cao và vòng xoay đi-về không đạt hiệu quả kinh tế.
Theo thống kê 2005, đội tàu VN chỉ chiếm 7% số tấn trọng tải hàng hóa hai chiều mà thôi. Trong lúc đó những nước nhỏ láng giềng như
Singapore
chỉ có khoảng 900
tàu nhưng tổng trọng tải lên đến 36,5 triệu tấn. Thậm chí, đội tàu của Campuchia đã chuyển vận gần 5 triệu tấn, hơn VN hàng triệu tấn. Do đó, ngay tại sân nhà, đội tàu VN đã bị lấn áp bởi các công ty ngoại quốc như Maersk line, NYK, P&O trong dịch vụ chuyển vận dầu thô và
hàng hóa trong vùng.
Những thông tin trên cho thấy rằng VN còn phải đối mặt với nhiều sức ép sau khi gia nhập vào WTO, và nếu không
có kế hoạch tạo dựng một lực lượng tàu với trọng tải lớn hơn, huấn luyện nhân viên quản trị chuyển vận, cùng điều chỉnh và canh tân hệ thống quản lý điều hành, thì cuộc chạy đua cạnh tranh với quốc tế sẽ thấy VN ở thứ hạng thấp nhất.
Vào tháng 12,2007, Ban chấp hành
Trung ương đảngCS Việt Nam đã ra nghị quyết về "Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020", trong đó đề ra những điểm chính
sau:
- Việt Nam phải phấn đấu để trở thành một quốc gia mạnh về biển;
- Xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng
duyên hải gắn liền với các hạot động kinh tế biển làm động lục quan trọng đối với sự phát triển của các nước.
Chiến lược còn đặt ra chỉ tiêu cho năm 2020 là kinh tế biển phải đóng góp 53- 55% cho GDP và 55- 60% cho xuất cảng của cà nước.
Chiến lược không
nói đến căn cứ vào dữ kiện nào mà Việt Nam có thể đạt được những thành tích nhảy vọt trên mặc dù khả năng chuyển vận đường biển của Việt Nam hiện tại như đã nói trên còn quá yếu, kém cả nước láng giềng là Cambodia. Không đủ khả năng bốc dở hàng
hóa, cũng như các bến cảng không đủ sức cho các tàu có trọng ati lớn, cùng
tiến độ bốc dở còn chậm lụt... tất cả làm cho giá thành của xủa sản phấm xuất và nhập cảng cao hơn giá
thành thữc sự.
Thách thức nầy cũng là một trong
những ưu tiên cần giải quyết vì Việt
Nam
nặng về xuất cảng hàng
nông phảm và thủy sản. Ðó là những mặt hàng nặng về trọng lượng nhưng nhẹ về hiệu quả kinh tế.
Thách thức trong ngành viễn thông và điện thoại di động
Ðây là một ngành tương đối mới ở VN mà trong những năm gần đây mức tăng trưởng của việc xử dụng điện thoại di động tăng từ 60 đến 70% hàng năm. Tính đến 2005, tổng số điện thoại di động thuê bao ở cả nước đạt được 12 triệu. Chính vì lý do đó, các hãng điện thoại ngoại quốc như Motorola, Nokia, Siemens, Ericsson, Telenor và Lucient
Technologies đã khai thác và ráo riết cung cấp dịch vụ ở VN.
Trong lúc đó, VN chỉ hiện diện qua năm công ty quốc doanh mạng di động như Vina phone, Mobifone, Viettel mobile, S-fone, E-mobile đang hoạt động, và một công ty mới sắp ra mắt là Hanoi Telecom.
Ðứng trước sự xâm nhập của các đại công ty ngoại quốc, từ tháng 1 năm 2006 vừa qua, các công ty VN đồng loạt hạ giá cước, do đó cước viễn thông của VN giảm dần và đang ở mức giá
trung bình tại ÐNA, không còn đứng đầu như cách đây năm năm. VN cũng đã dự trù vào 2008 sẽ phóng vệ tinh VINASAT, từ đó sẽ tạo cơ hội cạnh tranh nhiều hơn với các công ty nước ngoài. Và VN cũng dự trù cổ phần hóa (tư nhân hóa) các công ty trên để có thể hội nhập vào thị trường chứng khoán tự do.
Nhờ vào những lợi điểm trên
sân nhà, VN đã đẩy mạnh chương trình viễn thông di động, tuy nhiên với nguồn vốn không đủ lớn, sau khi hội nhập cuộc chơi WTO, các công ty ngoại quốc có thể khai thác sức mạnh nguồn vốn để thôn tính các công ty VN qua các điều kiện thuận lợi trong
thị trường VN, mặc dù trong giai đoạn chuyển tiếp, các công ty nước ngoài chỉ được đóng góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác VN đã được cấp giấy phép.
Hơn nữa, ngoài khả năng nguồn vốn, công
ty ngoại quốc còn ở thế mạnh về công nghệ sản xuất và cung cách khuyến mãi theo cung cách tư bản làm cho
công ty VN khó có khả năng đối đầu ở mặt trận nầy. Tuy nhiên, VN cũng có thể dùng thời gian còn đặc ân 12 năm để làm rào cản hạn chế bớt sự xâm nhập của các
công ty viễn thông ngoại quốc vào VN.
Cũng cần lưu ý là,
hiện tại VN chú trọng nhiều đến viễn thông di động, nhưng không phát triển viễn thông "cố định", tức là điện thoại dùng hệ thống dây cáp quang để có thể liên lạc và thông tin khi có biến động xảy ra như chiến tranh
hay áp lực của thế giới tây phương. Vì còn lệ thuộc vào ngoại quốc, VN chưa chủ động được việc điều hành vệ tinh viễn thông, cho nên viễn thông di động VN có thể bị gián đoạn, vì các công ty cho thuê bao vệ tinh viễn thông
có thể cắt đứt hợp đồng trước sức ép của quốc tế(!) để gây khó khăn cho VN.
Sau vụ động đất ở Ðài Loan vào tháng 2, 2007 làm tê liệt hệ thống cáp
quang của Ðài Loan và Việt
Nam
do Việt
Nam
thuê bao. Tình trạng nầy đã cắt đứt hệ thống điện thoại viễn liên của Việt
Nam
trong nhiều ngày. Sau đó, Việt Nam đã quyết định xây dựng hệ thống cáp quang riêng do cty Hoa Kỳ thiết kế av thực hiện. Tuy
nhiên do tình trạng kinh tế chung (nghèo) của người dân không ổn định, các hệ thống cáp quang vừa được lấp đặt lại bị những átu "đánh cá" "đánh cắp"
hàng trăm hàng ngàn tấn dây cáp quang để lấy đồng (copper) đem đi bán. Theo ước tình của Việt
Nam
sự thất thoát cho đến nay đã lên đến hàng trăm triệu Mỹ kim.
Thách thức do tâm lý dân tộc trước tiến trình toàn cầu hóa
T.S Branco Milanovic, kinh tế gia của Ngân
hàng Thế giới (WB) đưa ra nhận định cần suy gẫm. Ðó là "Toàn cầu hóa đã làm tăng thêm sự bất bình đẳng giữa công dân của những nước giàu nhất cũng như giữa các quốc gia đang phát triển". Lý do làm ông đưa ra nhận định trên là những phản ứng trái ngược từ phía các quốc gia kỹ nghệ và những nước đang phát triển đối diện với sự phất triển của Ấn Ðộ và Trung Quốc.
Ðó là:
- Các cường quốc trong
WTO "khó chịu" trước những bước tiến của TQ và AÐ, dù họ cũng thực hiện cùng một chiến lược toàn cầu hóa do các cường quốc khơi mào.
- TQ và AÐ hiện có khả năng cạnh tranh
trên phạm vi toàn cầu, nhưng chỉ có một phần nhỏ dân cư của họ có cuộc sống phồn vinh. Sự bất bình đẳng ngày càng tăng giữa dân thành thi và nông thôn, giữa miền duyên hải và nội địa ở Trung Quốc; những bất ổn chính trị cũng có thể tự đó mà có.
Tại VN, sau hơn 20 năm mở cửa phát
triển, và sau 10 năm mức tăng trưởng đạt chỉ tiêu từ 7% trở lên, VN phải đối mặt với tình trạng môi trường hầu như bế tắc qua việc tận dụng nguồn tài nguyên đất đai trong phát triển nông nghiệp, chăn nuôi và trồng trọt.
Việc phát triển và xuất cảng hàng năm 5 triệu tấn gạo, thu hồi 1,5 tỷ Mỹ kim, cũng như việc xuất cảng hải sản thu hồi trên 5
tỷ, có đem lại sự phồn vinh hay cải thiện cuộc sống của người dân ÐBSCL hay không? Nhìn vào mức di dân từ vùng này
vào các thành phố lớn, nhìn vào tệ trạng học sinh bõ học hàng loạt trong những năm gần đây, nhìn vào việc chấp nhận "làm dâu" người ngoại quốc của các thiếu nữ miền Tây,
nhìn vào tất cả những hình thái tệ hại nhất trong việc buôn người, bán trẻ con... chúng ta cũng đã có thể hình dung câu trả lời.
Thêm nữa, việc khai
thác quá độ nguồn đất ở VN sẽ đưa đến những thảm họa không xa. LHQ mới vừa cảnh giác, nếu VN tiếp tục khai thác như những năm vừa qua, thì trong vòng 10 năm nữa sẽ có 4 triệu mẫu đất bị sa mạc hóa.
Ðây cũng là nguyên nhân dự báo trước khiến cho tâm lý người dân ở những vùng nông nghiệp, vùng sâu và xa càng thêm tuyệt vọng và ngày càng đánh mất lòng tự trọng để làm bất cứ việc gì chỉ vì kế "mưu sinh". Chính họ đã xem nhẹ số phận của chính
mình và không còn niềm tin vào chính sách của nhà nước nữa. Tâm lý trên đã tạo ra một thái độ bất cần đời, bất hợp tác, hay nguy hiểm hơn nữa, là có thể tạo ra những bất ổn xã hội vì "cơm áo". Từ đó có thể đưa đến một bất ổn chính trị nếu có một sự khơi mào trong tầng lớp bần cùng này. Ðây cũng là một cản ngại mà VN cần phải lưu tâm.
Thay lời kết
Sự phát triển xã hội của một quốc gia được đánh giá là bền vững khi tầng lớp trung lưu chiếm đa số như ở các quốc gia Tây Âu và Hoa Kỳ. Và chính tầng lớp trung lưu nầy là tác
nhân điều tiết mọi biến động kinh tế của quốc gia. Trong trường hợp VN, mặc dù mức tăng trưởng có đều nhưng đồng thời khoảng cách giàu nghèo cũng gia tăng, và
trong tình trạng hiện tại, tầng lớp trung lưu chỉ chiếm theo ước tính độ 30% chưa đủ để làm chất đệm cho xã hội. Chính hai yếu tố nầy nói lên cung cách phát triển kinh tế của VN là
chưa bền vững được.
Ðồng thời với việc gia nhập vào ngưỡng cửa WTO, VN đã lên tiếng báo động là có thể có 600 ngàn công nhân ngành dệt may, 300 ngàn công nhân ngành
giầy da, 400 ngàn nông dân chăn nuôi thủy sản có nguy
cơ bị mất việc vì cạnh tranh. Vấn đề được đặt ra nơi đây không phải là những con số dương tính hay âm tính. Nhưng là việc VN cần soi chiếu vào
tình trạng hiện tại của quốc gia để hoạch định hướng hội nhập thích nghi với tiến trình toàn cầu hóa trong đó việc gia nhập vào WTO chỉ là một bước trong tiến trình trên.
Qua những gợi ý về những cản ngại căn bản trên,
việc gia nhập vào WTO của VN không phải là một yếu tố đòn bẫy chủ yếu tạo nên tăng trưởng kinh tế quốc gia. Ðiều cốt lõi là VN cần phải chuyển đổi não trạng, xác định rõ chính mức tăng trưởng kinh tế quốc gia mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và thúc đẩy quá trình hội nhập của VN để được thành công hơn. Ðây mới đúng là mục tiêu tối hậu của việc hội nhập vào cuộc chơi của toàn cầu.
Muốn đạt mục tiêu,
VN cần phải phát triển lành mạnh và trong sáng trong quản lý, nghĩa là tạo ra một xã hội pháp trị, quản lý bằng luật định của quốc hội chứ không bằng nghị quyết đến từ bất cứ nhân vật cao cấp nào trong đảng. VN cần phải bình đẳng và công bằng trong mọi quyết định về nhân sự, đặc biệt là nhân sự trong vấn đề quản lý kinh tế và kế hoạch, khuyến khích tư nhân đầu tư nguồn vốn và chất xám vào công cuộc phát triển quốc gia chung. Ðặc biệt là cần phải chấm dứt chính sách Hồng hơn Chuyên, vì đây mới đích thực là một cản ngại lớn nhất cho mọi tiến bộ của đất nước..
Làm được như thế, VN sẽ giảm bớt gánh nặng phá sản của các
công ty quốc doanh, kéo theo mức thâm thủng của ngân
hàng qua những món nợ "xấu". Hai yếu tố sau nầy là nguyên nhân chính của tình trạng tham
nhũng trong nước.
Một yếu tố sau cùng
cũng cần cảnh báo cho Việt
Nam
là khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng so với trước kia. Ðiều nấy chính là một nghịch lý lớn trong phát triển. Theo công bố mới nhất của Ngân hàng Thế giới vào tháng 3,2007 qua hội thảo "Công bố báo cáo cập nhật nghèo", tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam là
5.766 Ðồng/ngày (tương đương 0,30 Mỹ kim), trong lúc đó tiêu chuẩn nghèo của LHQ là 2 Mỹ kim/ngày. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng nơi rộng ra, và phúc lợi tạo ra do phát trỉan không
phân phối đồng đều cho người dân.
Những nguyên nhân chính cho tệ trạng kể trên là:
1- Việc xử dụng vốn đầu tư cho quốc gia không hiệu quả làm cho nỗ lực xóa đói giảm nghèo không tiến triển như ý muốn; 2- Việt Nam phải mất 5 Mỹ kim đầu tư để có được 1 Mỹ kim tăng trưởng thay vì 3 Mỹ kim như ở các quốc gia đang phát triển trong vùng. Thử hỏi 2 Mỹ kim thất thoát đó có phải là do môi trường tham nhũng tạo ra hay không? Và đây cũng chính
là nguyên nhân chính đẩy cao khoang cách giàu nghèo.
Do đó, muốn thực sự hội nhập vào tiến trình
toàn cầu hóa qua WTO, Việt
Nam
cần phải thay đổi toàn diện và triệt để. Cái đuôi "Kinh tế thị trường theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa" đã thất bại hoàn toàn qua những chứng minh trên. Từ đây, từ giờ phút nầy, thiết nghĩ, cường quyền cần phải lột bỏ não trạng cũ để thay đổi và thành thật với chính mình. Thay đổi kinh tế không chưa đủ, cần phải thay đổi toàn diện những vấn đề của xã hội, từ bõ độc quyền lãnh đạo, căn nguyên của tất cả những bế tắc của Ðất Nước hiện tại. Trong giai đoạn chuyển tiếp còn gọi là thời kỳ quá độ, người cộng sản thường hô hào là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa bằng con đường "kinh qua" giai đoạn tư bản chủ nghĩa hiện nay. Nhưng đây, chỉ là những bước tiến "cổ điển" của một quốc gia đang phát triển đi lên tư bản chủ nghĩa thời phôi thai ở vào đầu thế kỷ 19. Ðó là bước đầu của cách mạng cơ khí và công nghiệp mà chính người cộng sản đang dọ dẫm và mò mẫm học con đường nầy trong gượng ép và dưới sức ép của sự sống còn của một tầng lớp tư bản "đỏ" mới.
Sau nhiều thập niên sống trong
chiến tranh, sau hơn 32 năm phát triển trong hòa bình, rõ ràng cơ chế quản lý bao
cấp cũng như cơ chế quản lý theo cung cách phát triển thị trường tự do theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho đến nay đã đem lại cho người dân được gí? Có chăng là tuyệt đại đa số dân chúng chỉ cầu mong hàng ngày được thỏa mãn nhu cầu sống còn ở bậc thấp nhất là miếng cơm manh áo.
Bao giờ người dân Việt mới có thể bước thêm một bước nữa để đạt được các nhu cầu cao hơn như được sống trong an bình, được trân trọng, và sống có lý tưởng để góp phần vào công cuộc đóng góp cho quốc gia!
Mai
Thanh Truyết
,
California
25-8-2007
=END=
5- Tham Khảo
- NGUYỄ
N BẮC
SƠN, điên hay tỉnh khi viết về thân phân mình Qua người lính VNCH
Mường Giang
(VNN)
Chiến tranh Việt Nam coi
như tạm chấm dứt về phương diện quân sự sau ngày 30-4-1975, thì một cuộc chiến khác đã bùng nổ lớn trong
dòng sinh mệnh của dân tộc. Ðó là cuộc chiến về ý thức hệ giữa nhân bản, tự do và xã hội chủ nghĩa, dù rằng tư tưởng Mác-Lê và chế độ cộng sản đã lần lượt bị tan biến khắp nơi trên thế giới, nhất là tai Liên Xô, Ðông Ðức, Ðông Âu... kéo theo sự sụp đổ của bức tường ô nhục Bá Linh. Ở đâu cũng vậy, thắng làm vua, thua là ngụy. Hà Nội thắng trận nên trở thành chủ nhân ông
toàn vùng, đem cái mô hình văn hóa vô sản chuyên chính của miền Bắc lạc hậu, dối gian, không có tình người, bắt ép kẻ chiến bại VNCH phải nhồi nhét,
tiếp thu. Từ đó cả nước nắm tay nhau, kẻ sau người trước chìm sâu trong vũng bùn ô uế của thiên đàng xã nghĩa.
Qua cuộc đổi đời tận tuyệt, không biết còn được mấy ai chịu nhớ lại cái thời xưa cũ, chính ta đã làm ta mất nước. Thật vậy, từ ngày cộng sản quốc tế khai sinh tại VN vào năm 1930 tới nay, lúc nào các lãnh tụ đảng, từ Hồ chí Minh
tới Trường Chinh, Lê Duẩn, Tố Hữu, cũng đua nhau lập thuyết về vai trò của nền văn nghệ đảng, như thứ vũ khí trí tuệ ánh sáng, để giết giặc, để chiến thắng và dùng nỗi hãi sợ, khiến cho người phải thi hành. Trái lại ở miền
Nam
,
văn học được sử dụng không hơn, không kém một món hàng thời thượng. Tàn nhẫn hơn, còn có một ít người sống ký sinh trên thân thể đau thương
của mẹ Việt
Nam
,
mà lại tưởng như mình là kẻ ngoại cuộc bên lề trách nhiệm, dửng dưng nhìn giặc gây tang tóc, khổ đau cho đồng đội, đồng bào. Giống như một số lớn văn nghệ sỹ miền
Nam
trước năm 1975,
NGUYỄN BẮC SƠN, thực tế không phải là một người lính VNCH, nhưng đã tự khoắc cho mình chiếc áo lính để có lý do phản đối chiến tranh. Ngoài ra còn lác đác đưa vào thơ một vài chữ nghĩa nhà Phật, khiến cho
xung quanh cũng ngất ngưởng theo. Hỡi ơi giữa cái bể đời lúc đó đang sôi sục bom đan, máu lửa và xác người, bổng lừng lửng có mấy ông người gỗ, trên mình khoắc áo lính, chắp tay thanh thản chờ chim bồ câu trắng hiện ra hay đấm ngực đòi hòa bình tức khắc, coi chính nghĩa như chuyện hão huyền, sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh. Thái độ đó, nếu không phải của người điên, thì chắc là hành động của những kẻ vô tâm, thất chí nên đâu cần nhớ tới sự thế thăng trầm:
'...bi kịch của bố con tôi
là bi kịch của hai thằng tây den
cùng đi kiếm con mèo đen
trong đêm đen mù mịt...'
(thơ NBS-).
Nhưng dù gì chăng nữa, nhà thơ vẫn còn khá
hơn nhiều nhiều người trong cuộc sống bằng cái bã hư danh phù phiếm, vì ông đã hóa thân vào người lính chiến VNCH, nói lên được một phần ngàn cái thê thiết gian truân của kiép lính.
+ Hai cảnh đời trái ngược trong dòng văn học chiến tranh Việt
Nam
Từ sau hiệp định Genève chia đôi đất nước vào tháng 7-1954, trong khi chính phủ miền Nam dồn hết nhân vật lực để kiến tạo non sông, mang ấm no hạnh phúc cho muôn dân, thì trên đất Bắc, không
khí chiến tranh gần như nguyên vẹn, điều này cũng dễ hiểu, vì Hà Nội lúc nào cũng phải trường kỳ chiến đấu trong thân phận, một mũi xung kích của cộng đảng quốc tế. Bao nhiêu khuôn vàng thước ngọc của Mao trạch Ðông
ban truyền từ năm 1942 tại Diên An, đều đước các đảng viên cao cấp mang về VN xào nấu lại thành cái lý thuyết chỉ đạo văn nghệ tập thể vô sản chuyên chính. Sau cùng để cho hợp với hoàn cảnh từng giai đoạn chiến tranh,
những lập thuyết đề cương văn nghệ mới lại tiếp tục ra đời như thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng, qua cái bình phong hội văn nghệ giải phóng
miền Nam, giải văn nghệ Nguyễn đình Chiểu...
Ðọc văn biết người, nhưng trong dòng văn học miền Bắc, thì chỉ cần nhìn tựa sách cũng đủ biết hết nội dung. Tất cả các văn thi sĩ đã thành danh thời tiền chiến như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn công Hoan, Thanh Tịnh, Cù huy Cận, Thế Lữ, Xuân Diệu... cho
tới những người mới nổi như Nguyễn Ngọc, Lê Lựu, Nguyễn Sáng... kể luôn nhóm cộng sản đang nằm vùng tại miền Nam như Giang Nam, Ðoàn Giỏi, Nguyễn văn Bổng... đều viết theo đơn đặt hàng, đằng đằng sát khí, cổ võ hờn căm, phân chia bạn thù, chống Mỹ, chống ngụy để cứu nước. Vì là nền văn học chuyên chính, nên mọi người viết gần giống nhau, cách mạng đánh đâu thắng đó, còn Mỹ-Ngụy thì thua chạy bò càng, máy bay bị bắn rớt liên tục và người chết như rạ. Tóm lại người làm văn nghệ mìền Bắc chỉ như một cái máy hay con vẹt của đảng, không biết đau lòng trước mọi hoàn cảnh, không có cảm xúc nhưng phải biết đề cao để làm sáng chói tính đảng, tính giai cấp, tính
siêu việt của xã nghĩa. Không có cái ta hiện hữu ở đây mà chỉ có tập thể, chỉ có niềm vui
chung do đảng quyết định, còn mọi thứ khác phải cất giữ trong đáy lòng, hó hé, kêu than sẽ bị mút mùa cải tạo.
Bao nhiêu năm trời phải bịa đặt, lừa dối, từ trẻ nít cho tới kẻ bạc đầu để có tem phiếu mà sống. Rồi nhà văn, thi sĩ còn phải biết hèn cúi, nịnh nọt để yên thân, khỏi bị hạ tầng công tác hay tống vào
Nam
làm bia đỡ đạn. Một vài con chim lạc đàn, vô tình hay cố ý bay lệch bầu trời, sẽ bị trừng trị không thương tiếc, những Nguyễn Kiên Giang (nằm vùng), Hoàng minh Chính, Nguyễn Duy, Phạm tiến Duật, kể cả Việt Phương,
thư ký của Phạm văn Ðồng, làm thơ, viết văn lệch hướng đảng đều bị nghiêm phạt. Dòng thơ phản kháng của Nguyên chí Thiện hay Bút Tre chẳng qua cũng chỉ là những con đom đóm, cho một chút ánh sáng le lói, rồi lại vụt tắt trong
bóng đêm trùng trùng:
'... anh đi công tác Pơ Lây
Cu dài giằng đặc, biết ngày nào ra..
Anh đi công tác Buôn Me
Thuột xong một cái lại về với Em...
Chị em du kích tài thay
Bắn tầu bay Mỹ rơi ngay cửa mình...
(Bút Tre)
Ở miền Bắc, thiên đường xã nghĩa là thế đó, trong khi tại miền
Nam
,
dù bị chiến tranh, mọi người vẫn có hoàn cảnh tự do tối thiểu để sáng tạo theo ý mình, cũng như không hề có dòng văn nghệ một chiều hay chuyên chính. Bởi vậy mới có trăm hoa đua nở, từ văn chương
chống cộng lúc đầu, sau đó thành chống chiến tranh dù chiến tranh được cộng sản mang từ miền Bắc vào. Cũng do chiến tranh quá dài và dai dẳng, nên ai cũng buồn phiền và chán
ghét chiến tranh. Rốt cục, chính phủ và người lính miền
Nam
phải gồng mình ôm đồm tất cả, trong lúc hậu phương buông thả hững hờ. Mọi người gần như bế tắc và chỉ còn biết bơi lội quanh quẩn trong kiếp sống hiện sinh. Giữa lúc thời cuộc quay cuồng theo tiếng bom đạn, thì một bọn ký sinh đứng ngoài lề cuộc sống khổ đau của miền Nam, lợi dụng tự do, nhân danh tôn giáo, khơi dậy trong lòng phiền muộn của những người trong cuộc bằng trò hề phản chiến, chống chính phủ, chấp tay cầu nguyện cho bồ câu trắng hiện hình trên bầu trời miền Nam, trong lúc xe tăng, đại pháo và cả triệu bộ đội miền Bắc đang hiện diện.
Trước năm 1960,
trong cảnh thanh bình khắp chốn tại miền Nam, chiến tranh thật sự tạm vắng bóng trên chiến trường, nhưng trong văn chương chữ nghĩa miền Nam, nó có hiện hữu bên cạnh các tác phẩm khác viết về tình yêu, tuổi trẻ, phong tục và triết lý. Sau đó Sáng Tạo ra đời, bắt đầu một cuộc phá phách, gây xáo trộn trong thị trường chữ nghĩa một thời, dù thực tế họ chỉ là những kẻ đi tiếp con đường vạch sẵn của phong trào thơ mới, của tiểu thuyết hiện sinh, của nhóm đệ tứ cộng sản quốc tế đả tàn lụn tại VN vì sự thanh trừng nội bộ. Những thơ văn sáng tác của Thanh tâm Tuyền, Quách Thoại, Tô thùy Yên, Duy Thanh,.. mang cái ám ảnh của chiến tranh,
dù trong tưởng tượng lúc đó, để có cái cớ sống hiện sinh, cá nhân, triết lý siêu hình.. như kiểu cách của các triết gia tây
phương Albert Camus, Alain Robbegrillet, Nathalie Sarraute... nghĩa là phải sống cho
cái bản ngã riêng mình vì hoài nghi hết mọi người chung quanh. Nhưng trong cái không khí sống chết mặc bây,
may thay đã thấy xuất hiện Nhã Ca (đêm nghe tiếng đại bác, người tình ngoài mặt trận, giãi khăn sô cho Huế.), Ý Uyên (bão khô, tượng đá sườn non, ngựa tía), Dương nghiễm Mậu (địa ngục có thật, khi người chết có mặt...) Trang Châu (y sĩ tuyền tuyến), Văn Quang,
Ðổ Tấn, Võ hữu Hanh, Phan nhật Nam, Vũ ngự Chiêu... viết về tình yêu, tình đồng đội và thảm trạng chiến tranh, bằng lương tâm của người cầm bút trong cuộc.
Thế rồi xảy ra cuộc binh biến
1-11-1963, tiếp tới ba năm xáo trôn, xã hội miền Nam bắt đầu quạy cuồng trong cơn lốc của bọn loạn tướng kiêu tăng, tạo cơ hội cho cộng sản miền Bắc trỗi dậy và hiện diện trùng trùng khắp ngõ ngách VNCH. Những trận đánh đẫm máu, những cái chết của đồng đội, sự thương vong đổ vỡ của đồng bào trong vùng chiến nạn, cộng với cảnh lố lăng, tham nhũng, trò lộng hành của đám lãnh tụ ở đô
thành... và cuộc sống sa đọa theo đồng đô la Mỹ, làm cho tuổi trẻ và giới trí thức trở thành mất lòng tin, hoài nghi tất cả, nên lao đầu vào cuộc sống hiện sinh không bến bờ.
Tường đổ thì bìm leo, một số cộng sản nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lưu Nghi, Vân Trang, Minh Quân, Nguyễn ngọc Lan, Nhất Hạnh, Thế Nguyên... trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Tin văn, Ðất nước... liên tục tố cáo chính quyền tham nhũng, bất công, đòi liên hiệp với cộng sản. Trong khi đó, Văn và Bách Khoa cũng đăng những bài thơ phản chiến của lớp người mới nổi sau năm 1970, mà ghê rợn nhất là Ngụy Ngữ.. bôi bẩn danh dự của QLVNCH một cách không nhân nhượng.
Còn gì bi thảm hơn cho những người lính đang cầm súng chiến đấu, để bảo vệ quê hương, lại bị những tên phản chiến như Ngụy Ngữ mạt sát: 'chúng tôi là một thứ quân đội viễn chinh.. và quê hương bát ngát này không cần đến bọn viễn
chinh...' văn chương sắt máu, phản bội kiểu này, nếu sống dưới chế độ cộng sản, liệu y có còn mạng để sống, chứ đừng mơ tưởng để viết. Ðó là mặt thật của hai cảnh đời trái ngược. Người miền Nam như vậy, tại sao chúng ta không mất nước?
Tóm lại đây là những phần tử mò trăng đáy nước, ù ù cạc cạc trong một chủ nghĩa hư vô, bi quan, bất mãn, suốt cuộc đời chỉ quẩn quanh là những cây láo lếu, chờ sung rụng ngoài hiên... Rồi thì giặc tới, ngoại trừ một số tuy lẻo mép chữ nghĩa nhưng biết khôn đã ôm chân Mỹ chạy, để còn có cơ hội tiếp tục chuyện dài phản chiến ở hải ngoại. Hầu hết văn thi sĩ lớn của miền Nam, bất chấp phản chiến hay chiến đấu, đi lính thật hay là lính đào ngủ, trốn quân dịch, vua, quan, sĩ thứ, công chức, thường dân, trừ Dương văn Minh, Nguyễn văn Huyền, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng.., đều được đi cải tạo, để biết khôn như người miền Bắc, có trách nhiệm và bổn phận con người khi được làm người. Song song với sự sụp đổ vật chất, các giá tri tinh thần của miền Nam, cũng bị xóa bỏ tận tuyệt bằng các
nghi định và chiến dịch đốt sách chôn học trò kiểu bạo chúa Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Ðông, Giang Thanh. Ngày 20-8-1975, Lưu hữu Phước mở màn cuộc quét sạch ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa phản động của thực dân mới, tháng 3/1976 bắt đầu thanh toán văn nghệ sỹ miền nam, trong số này không ít người đã góp công với cộng sản miền Bắc:
'... tôi từ đó chợt đau từng khúc
hát
thương về đâu và gởi nhớ về đâu
nước trôi đi bóng trăng còn ở lại
một vầng trăng bốc lửa ở trong đầu...'
(thơ của Hạc thành
Hoa)
+ Nguyền Bắc Sơn, điên hay tỉnh qua thân phận người lính VNCH
Nhà thơ Nguyễn bắc Sơn sinh tại Phan
Thiết, tỉnh Bình Thuận, tên thật là Nguyễn văn Hải. Thuở nhỏ học hành dang dở vì hoàn cảnh gia đình chỉ có mẹ, còn người cha tập kết ra Bắc năm 1954. Chính cái bút hiệu Nguyễn bắc Sơn, theo sự thố lộ của đương sự, là để nhớ về người cha Việt Cộng đang phục vụ tại rừng núi Bắc Sơn, Bắc Việt. Một lý do khác khiến Hải bỏ học sớm, vì sức khỏe yếu, tinh thần bạc nhược khác đời, điên điên, tỉnh tỉnh bất thường. Ðây cũng là cái phần phúc của trời ban, cho nên chỉ trong một sớm một chiều, khi bài thơ 'chiến tranh Việt Nam và tôi' được Bách Khoa đăng vào đầu thập niên 1960, đã đưa Nguyễn bắc Sơn lên đài danh vọng, về mặt làm thơ phản chiến và thiền vị. Sau năm 1975, người cha tập kết trở về, ngoài cái già nua của một phần đời sống bằng tem phiếu, còn đeo theo gia tài của đảng ban phát qua cuộc hôn nhân xã nghĩa. Cũng kể từ đó, nhà thơ mới chịu mở mắt, qua tiếng khóc nức nở nghẹn ngào của mẹ, một đời, khóa chặt hồn xuân để làm sương phụ, nuôi con, đợi chồng ngoài quan tái, và nhức nhối là cái chết của người cha VC đã bị VC thanh toán nội bộ qua một tai nạn lưu thông được dàn dựng tại Ngả Ba Bình Tuy Phan Thiết.
'... bố tôi qua đời đúng năm năm,
tôi viết bài thơ này
để tâm sự một người khuất núi
thuở sinh tiền
ông rất thương
tôi
đúng là hai người đàn ông có bề ngoài lãnh đạm
bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
... cùng bạn bè đi làm
cách mạng
ông làm cách mạng chừng nào
thì loài người càng
thêm sặc máu...'
(thơ NBS-2002).
Vì lý do sức khỏe nên nhà
thơ không bị đi lính như bạn bè cùng lứa tuổi, nhưng không biết trong một phút ngẫu hứng nào đó lại vào làm thông dịch viên cho toán A lực lượng đặc biệt đang hoạt động tại trại Phi Hổ. Bởi vậy trong suốt dòng thơ viết về lính, tác giả chỉ nói tới mật khu Lê hồng Phong của VC ở Lương Sơn, Bình Thuận mà thôi. Sau khi trại LLÐB giải tán,
Nguyễn bắc Sơn cũng giã từ vũ khí cho tới tháng 4/1975.
Trại Phi Hổ, đơn
vị của Nguyễn bắc Sơn, nằm sát quốc lộ 1, tại xã Chợ Lầu (Hòa Ða), cách Sông Mao chừng 2 km và liền với mật khu Lê
Hồng Phong. Nơi này trước là doanh trại của Trung đoàn 42, SD 22 BB, đã di chuyển lên cao nguyên. Tháng 2/1962 toán B3 của đại úy Trịnh văn Viễn về tiếp thu trại trên, thì tình hình toàn vùng rất tồi tệ, ban đêm VC thường kéo về các xã quanh vùng tổ chức biểu tình, diễn kịch, trong
lúc đó ÐPQ Hòa Da, cũng như TTHL/ÐPQ-NQ Sông Mao phớt lờ vì không muốn biết tới chuyện bên
ngoài. Ðể đáp ứng nhu cầu chiến trường, trại Phi Hổ được phép tuyển mộ tân binh, thành lập một tiểu đoàn dân sự chiến đấu (loại lính ăn lương Mỹ, không có số quân), dưới quyền chỉ huy của LLDB gồm Mỹ và Việt, Nguyễn bắc Sơn làm thông dịch viên cho cố vấn Mỹ. Từ đó, trại luôn luôn tổ chức các cuộc hành quân vào sâu trong mật khu, tiểu đoàn
DSCÐ/LLÐB được mang danh hiệu là TÐ 10 nhảy dù, do đại úy Viễn chỉ huy, dĩ nhiên Sơn cũng phải theo cố vấn Mỹ trong các cuộc hành quân trên:
'... khi tao đi lấy khẩu phần
mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
chúng mình nhậu để trừ hao
bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng...'
(chiến tranh VN và tôi-NBS 1962)
Ngoài ra, LLDB còn phối họp với Tiểu khu trưởng Bình Thuận lúc đó là Trung tá Nguyễn quốc Hoàng, lập các trung đội ÐPQ tại các ấp chiến lược ở các quận Phan Lý Chàm, Hòa Ða, Hải Ninh, để bảo vệ làng xóm của họ. Năm 1962, bộ trưởng QP Hoa kỳ là Mc.Namara đã tới tận xã Lương Sơn thăm LLÐB và rất hài lòng về việc trại Phi Hổ diệt được nguồn nước trong mật khu tại Bầu Sen, Bầu Trắng, khiến gần như toàn bộ VC trong mật khu phải rút đi nơi khác vì không đủ nước ngọt để ăn uống, chỉ để lại các toán du kích nhỏ quấy rối mà thôi:
'tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
còn ngại hành quân động Thái An
cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
mùa khô thiếu nước lính hoang mang.
Ðêm nằm ngủ võng
trên đồi cát
Nghe sóng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong
lòng mình bát ngát
Nổi buồn sương
khói của mùa thu...'
(mật thư Lê hồng Phong
- NBS -1962).
Lực lượng VC bây
giờ còn trụ lại tại Lê hồng Phong chừng hai đại đội do Ích Reo, người thượng chỉ huy:
'buổi chiều uống nước dòng Ma hý
thằng Xuân bắn chết thằng Mang
Khinh
hỡi ôi sống chết là mưa nắng
gió tối mưa đêm chớ lạnh
mình...'
(thảo khấu-
NBS-1962)
Ðể khai tử cái huyền thoại chiến khu
LHP, một cuộc hành quân qui mô hỗn hợp giữa LLBC trại Phi Hổ, TÐ 10
nhảy dù (DSCD Lương Sơn) cùng tiểu khu Bình Thuận, hai mặt tấn công và san bằng mật khu. Dân chúng trong vùng bị VC kềm kẹp lâu
ngày, nay mới được giải thoát và được định cư tại Lương Son, Long Thạnh...
'đoàn quân anh đi, những bóng cọp vằn
gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
bốn chuyến di hành
một ngày mệt ngất
dừng quân đây nói
chuyện tiếu lâm chơi...
(chiến tranh VN và tôi- NBS-1962)
Ngày 15-3-1964, trại Phi Hổ đóng cửa, bàn
giao lại cho tiểu khu Bình Thuận, tiểu đoàn dân sự chiến đấu cũng được cãi thành lực lượng ÐPQ tỉnh, và Nguyễn bắc Sơn cũng giã từ nghề thông dịch viên cho Mỹ từ đó, để:
'... ngày vui đời lính vô cùng ngắn
mặt trời thoắt đã ở phương
tây
nếu ta lở chết vì say
rượu
linh hồn ta chắc sẽ thành
mây bay
(mật khu Lê hồng
Phong-NBS-1962).
Ðây không phải là một bài viết để phê bình thơ, nên không nói tới chuyện hay dở, phương chi Nguyễn bắc Sơn trước năm 1975, đã là một ngôi sao bắc đẩu trong dòng thơ miền
Nam
của thời kỳ 1960-1975. Thật vậy, khi đề cập tới phong trào thơ mới ở ngoài Bắc, nhà thơ Trần Huyền Trân được coi như tiền phong đóng góp trong việc canh tân thể thơ lục bát, sau đó có Bùi Giáng, Viên Linh và Du tử Lê nhưng chính
Nguyễn bắc Sơn trong cái khùng điên, mê tỉnh, cái giọng hào sảng ngang tàng đã thổi một luồng gió mới trong thơ. Ngoài ra khi bàn về cái riêng và cái chung trong hồn thơ Nguyễn bắc Sơn, các
nhà phê bình thơ đã đặt vấn đề vì sao trước năm 1975 và sau này ở hải ngoại, vẫn có nhiều người còn ưa thích đọc thơ ông? Ðây cũng là nét đặc dị của người Phan Thiết, cái ngông nghênh của người lính VNCH thuở nào, và trên hết là cái bình dân của người Việt
Nam
.
Ðã mất hết rồi, thì thôi hãy góp nhặt lại cái âm vang sầu lắng của một thời làm
lính nghênh ngang nơi vạn nẽo đường đất nước, mà Nguyễn bắc Sơn phô bày trong khi say tỉnh, hư thực:
'... kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình
ăn muối đá và hăng say
chiến đấu
ta vốn hiền khô, ta
là lính cậu
đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
xem chiến cuộc như tại trời ách nước
(thơ NBS)
Ngoài ra giữa cái dối gian
nhân thế, giặc đội lớp tu hành làm hoen ố chốn thanh tịnh, những người lính như Tô thùy Yên, Nguyễn bắc Sơn, Nguyễn đức Sơn (Sao trên rừng, người Phan Rang), cũng mang cái hương thiền tỏa rộng trong thế giới thi ca bằng thái độ ngất ngưỡng trong cuộc sống hằng ngày, coi đời như có như không, đời đã không có ta hiện hữu thì vướng vấn làm gì.
Mới dây, Nguyễn bắc Sơn từ Phan Thiết có gởi ra mấy bài thơ được nhóm thư quán đăng tải gồm có ba bài: giai nhân và sách vở, tâm hồn trẻ thơ và chuyện hai bố con tôi. Ðọc thơ của người lính ngẫu hứng năm nào, đã cho ta thấy ngay hai hình ảnh bi thảm nhất của con người nơi xã nghĩa: tuyệt vọng và lầm đường. Cái nỗi ăn không ngồi rồi của đám giang hồ nơi quán cà phê, khi tác giả mang tiền đi hớt tóc,
sao mà thê thảm quá, dường như đâu cũng đìu hiu đất Hán-Hồ, với gió thu phong, ải Nhạn Môn, hồn tứ xứ, đám phù bình, mộng Hoàng Lương... Ôi thôi toàn là những cảnh đoạn trường với bát cơm tân khổ trong tù ngục, câu chuyện năm năm khiến giật mình. Ðọc thơ mới thấy não lòng, vì trước đây, Nguyễn bắc Sơn giống như bố ước mơ làm cho loài người sung sướng, cho cõi đời tốt đẹp, nên trong thơ không hề có cái hiện tượng lạc lầm khi ta câu con đú, người câu đẽn, hoặc tuyệt vọng trong cái thiên đàng mà lúc nào ngày cũng muốn tàn, trời cứ nhá nhem
và đêm đen bít lối về. Tất cả dường như chỉ là tiếng thở dài héo hắt của một kiếp người, giờ không cần phải che đậy, làm dáng như một số người trong cuộc:
'khi gã Yêu Ly đâm Khánh
Kỵ
là đâm trúng phải trái
tim mình
sông Mường Mán không dung hào kiệt
muôn đời bóng núi đứng chênh vênh'
Tóm lại Nguyễn bắc Sơn buổi trước từng là nhà thơ lớn, dù bị xếp trong một hàng ngũ nào chăng nữa, thơ ông tự nó đã là một nhân chứng, vô tâm hay hữu tâm đứng về phía những người lính quốc gia chống cộng sản bảo vệ quê hương miền Nam, trong suốt hai mươi năm (1955-1975) khói lửa. Ðấy cũng là một phần thưởng vô giá dành cho thi nhân, qua những câu thơ bình dị viết về lính, lại âm vang
sâu lắng mãi trong lòng người. Cho nên những người lính già hôm nay hay nói về Tô thùy Yên, Nguyễn bắc Sơn, Phan Lạc Tiếp, Phan
Nhật Nam... là họ muốn nhớ lại chính mình của một thời tuổi trẻ, gươm đàn nửa gánh, giang sơn một vùng... thế nhưng chỉ qua một cuộc đổi đời, đã tàn phai héo lụn thảm thê:
'ta về cúi mái đầu sương điểm
nghe nặng từ tâm lượng đất trời
cảm ơn hoa đã vì ta nở
thế giới vui từ một lẽ loi...'
(thơ Tô thùy Yên).
Trong ta, tự dưng buồn quá đổi, nghe xót xa đời. Ba mươi hai năm qua rồi, nhìn lại không thấy gì mới mẽ trong tâm hồn người VN ngoài nỗi buồn nhược tiểu và thân phận đói nghèo. Ðất nước may mắn không còn chiến tranh và được "thống nhất" nhưng người dân vẫn không có tự do để sống theo cuộc sống tối thiểu của kiếp người. Cho nên đừng trách những người làm văn nghệ sĩ trong nước luôn sợ mở miệng mắt quai khi sáng tạo. Nếu có trách là trách những người đang sống tự do nơi những nẻo đường hải ngoại, qua thời gian viễn xứ, nhưng chỉ vì tiền và chút danh hão mà không dám mở miệng hay vẫn cứ uốn cong
ngòi bút để ca tụng HCM, vì sợ mắt quai cộng sản làm sao bán buôn các sản phẩm hay
thung thăng trở về hưởng thụ.
Ðó mới chính là nổi bi thảm của kiếp người VN -/-
Tháng 8-2007
tại Xóm Cồn
MG
=END=
6- Câu Chuyện Việt
Nam
- Thảm kịch và hài kịch
Văn
Quang
(VNN)
Không hẹn mà gặp, trong
tuần vừa qua, tại Việt
Nam
có hai chuyện làm xôn xao dư luận, đồng thời cũng gây phẫn nộ trong lòng người dân. Một chuyện xảy ra tại Ðà Nẵng và một chuyện xảy ra tận bên xứ Hàn Quốc. Có lẽ nhiều bạn đọc đã biết đó là chuyện gì. Tuy nhiên có điều đáng chú ý là hai sự việc đó đã phản ảnh trung thực cuộc sống của người dân thành thị và người dân thôn quê, nhất là cuộc sống vương giả của con ông cháu cha và người dân nghèo lương
thiện rõ nét như thế nào.
Nếu cậu ấm tác oai
tác quái ở sân bay Ðà Nẵng "hùng hồn, vương giả" được che chắn kỹ lưỡng bao nhiêu thì cuộc đời cô gái
lấy chồng Hàn Quốc bị anh chồng sát hại thê thảm, và cô đơn bấy nhiêu.
Hai nghịch cảnh ấy vô tình
"gặp nhau" trong cùng một thời điểm, do đó dư luận có cơ hội nhìn rõ
hơn và phán xét chính xác hơn về cuộc sống và
"số phận" của người dân VN hiện nay. Những mảnh đời được sinh ra trên cùng một mảnh đất, được hưởng thụ cùng một nền văn hóa, cùng có chung một lịch sử dân tộc, nhưng lại trái ngược nhau như trời với đất, như cọp với giun.
Cái gì đã làm nên sự khác biệt ấy? Sự bất công của xã hội hay sự lộng hành của quyền lực? Xin để bạn đọc tự trả lời.
Thông tin từ đâu?
Ðể dễ dàng nhận định, tôi xin sơ lược tường trình về hai câu chuyện ấy. Trước hết là chuyện của cô gái lấy chồng Hàn Quốc bị giết hại.
Ngày 9-8, Ðài truyền hình
KBS phát sóng về vụ cô Huỳnh Mai bị Jangamuke- chồng cô - sát hại dã man, chỉ vì cô muốn được trở về Việt Nam. Sau 8 ngày bị giết, người ta mới phát hiện xác nạn nhân trong tầng hầm căn nhà của Jangamuke ở phường Munhoa, thành phố Cheonan (Hàn Quốc).
Sau khi sát hại vợ,
Jangamuke đã bỏ trốn và ngày 5-8 bị Cảnh sát thành phố Cheonan bắt giam
Ngày 18-7 vừa qua, xác nạn nhân được hỏa táng và tro của Mai hiện đang được lưu giữ tại Cheonan. Sự việc này ngay lập tức gây chấn động dư luận Hàn Quốc và sôi sục tại VN cũng như Việt kiều hải ngoại và trên toàn thế giới.
Cần phải khẳng định ngay, người Việt
Nam
chúng ta ở trong nước cũng như ngoài nước biết được nguồn tin đau thương này là do chính những thông tin từ Hàn Quốc, chứ chẳng phải của "Ðại sứ quán
VN" hoặc một nguồn tin nào của Việt
Nam
.
Giả thử không có những nguồn tin từ Hàn Quốc thì liệu chúng ta có biết hay không hoặc đến bao giờ mới biết? Và đây có phải là lần thứ nhất những vụ việc bi đát như thế xảy ra không và còn có thể xảy ra ở đâu nữa? Hàn Quốc, Ðài
Loan,
Trung Quốc
,
Malaysia
,
Singapore
là nơi có rất nhiều, rất nhiều những cô gái
VN bị mang bán dưới hình thức môi giới hôn nhân? Không ai trả lời câu hỏi đó.
Chúng ta phẫn nộ với hành động thú vật của gã chồng Hàn Quốc nhưng nên cảm ơn những người làm thông tin Hàn Quốc đã đưa
ra thông tin này. Dù đã có rất nhiều người Hàn Quốc tỏ thái độ phẫn nộ, lên án
hành động điên rồ của người "đồng hương" của mình, nhưng dù thế nào thì cái nhìn của người Việt Nam với những người đàn ông Hàn cũng mất đi nhiều tình cảm và những giấc mơ xứ Hàn cũng đã trở nên tối tăm. Mặc dầu đó chỉ là hành động của một cá nhân, nhưng ít nhiều nó làm tổn hại đến uy tín của cả một dân tộc. Từ hơn một thập kỷ nay, những cuốn phim Hàn Quốc mang theo hơi thở, cách sống, phong tục, lễ giáo cũng như đời sống thường nhật của người Hàn đã mang đến cho nhiều khán giả Việt Nam những cảm tình
sâu đậm và không thiếu gì những cô gái thôn quê mơ ước được sống trong môi trường tốt đẹp đó. Song đến nay thì dường như họ đã hiểu ra đó chỉ là phim ảnh. Ðời sống qua phim ảnh được tô son vẽ phấn khá nhiều. Nó khác hẳn với thực tế. Nó còn nhiều điều bí ẩn phía
sau những phong tục, những tính cách, những thói quen của con người trong xã hội đó. Những bí ẩn ấy luôn là mối nguy cơ rình rập từng ngày từng giờ trong một cuộc sống chung giữa một người dân tộc này với dân tộc khác. Ðến ngay người trong một nước nhưng khác vùng, như giữa miền
Nam
và miền Trung, cũng đã có những khác
biệt, đừng nói đến một đất nước xa xôi mà ta chẳng biết đến bao giờ.
Bắt nguồn từ đâu?
Thảm cảnh của Huỳnh Mai xảy ra
chính là vì những khác biệt ấy. May mà trước khi chết Huỳnh Mai còn để lại một lá thư. Nếu không, có lẽ sẽ chẳng ai biết được chuyện gì đã xảy ra. Lá thư của Huỳnh Mai viết trước khi bị sát hại một ngày và để trong hộc bàn, chồng cô đã không phát hiện. Từ đó chúng ta mới biết được một số chi tiết để nhìn ra sự việc. Tất nhiên, "thư bất tận ngôn", Mai không thể kể hết những gì cô đã phải âm thầm chịu đựng:
"Em rất buồn vì chồng của mình, khi đến Hàn Quốc em đã không biết đời sống Hàn Quốc ra sao. Khi em buồn anh, anh phải hỏi em lý do chứ, anh giận em sao? Anh không biết rằng khi khó khăn thì cả hai đều phải bàn bạc với nhau và anh phải che chở cho phụ nữ sao? Khi em mệt mỏi, gặp khó khăn, em muốn nói chuyện với anh, nhưng mỗi khi trở về nhà anh đều thấy không vui. Mặc dù em nhỏ tuổi hơn anh nhưng chúng ta phải sống cho nhau tình cảm vợ chồng chứ...".
Mai còn viết: "Thật sự là em muốn về lại VN. Em mong rằng ước mơ của anh sẽ thành hiện thực và mong anh sống đàng hoàng. Khi về VN em sẽ làm lại từ đầu và đối xử tốt với ba mẹ em".
Không cần phải đọc hết lá thư, ai cũng có thể hình dung ra cuộc sống "địa ngục" đó của người vợ VN như thế nào trong một đất nước xa lạ với người chồng lạnh lùng vô cảm. Những dòng chữ chân thành mộc mạc đó với nỗi ước mong lớn nhất là được "nói chuyện với chồng" chứ chưa nói đến một sự thông cảm nào. Một ước mong rất đơn sơ không thể thực hiện được, chưa phải là vì cái hàng rào "bất đồng ngôn
ngữ" mà vì chính lương tâm con người. Ngay từ khi bước chân vào nhà chồng, Huỳnh Mai đã bị chồng bắt nhốt trong nhà, không cho tiếp xúc với hàng xóm. Mai muốn đi học tiếng Hàn chồng cũng không cho đi. Mai cứ hỏi điều gì liên quan đến tiếng Hàn là bị chồng chửi bới, đánh đập...
Thái độ này của người chồng bắt nguồn từ ý nghĩ và cũng là sự thật, khi anh ta đối với vợ chỉ như một món
hàng mua ngoài chợ trời. Hay nói khác đi là không khác gì đi chợ mua một con vật. Con
chó hay con mèo hoặc một chú gà mang về phục vụ cho một nhu cầu nào đó của gia đình. Ở đây là phục vụ cho chính bản thân anh ta.
Có lẽ tất cả những hành động vũ phu, man rợ của những người đàn ông "mua vợ" từ VN cũng bắt nguồn từ sự thật này. Vậy VN đã làm gì để ngăn chặn tình trạng "mua bán người" đúng hệt như thời nô lệ này?
Thật ra ở VN và
phía Hàn Quốc cũng đã có một số biện pháp ngăn chặn. Nhưng trên thực tế thì pháp luật lại "vướng luật". Bởi một cặp trai gái đến tuổi được phép thành hôn, khi cả hai cùng xác nhận "đồng ý lấy nhau" vì... tình cảm thì chẳng ai có
quyền cấm đoán họ. Tất nhiên muốn lấy chồng Hàn Quốc hay Ðài Loan thì cặp nào cũng phải khai như thế. Pháp luật cũng chỉ thở dài mà
ngó, chứ làm gì hơn được?
Giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của Huỳnh Mai, chưa đầy hai tháng đã vùi sâu trong lòng đất với 18 chiếc xương sườn bị gãy do bàn tay của người chồng.
Trên bàn thờ chỉ còn lại hình ảnh cô gái trẻ vùng quê nghèo đã từng rên xiết trong địa ngục nhà chồng.
Cha và người em út của Huỳnh Mai trước mái tranh quê nhà
Những "trung tâm môi giới hôn nhân lậu" đầy
rẫy
Tuy nhiên đó chỉ là tính
pháp lý. Muốn ngăn chặn có hiệu quả thì phải ngăn chặn từ trước khi họ đưa nhau ra làm đơn "đăng ký kết hôn". Muốn kết hôn kiểu này phải có người môi giới. Tất cả những cô gái quê này chẳng hề quen biết một ông Hàn
Quốc nào bao giờ. Ngoại trừ những người đã từng có cơ hội làm việc với những công ty xí nghiệp có người Hàn Quốc. Con số này rất ít, tôi không đề cập đến. Bởi vậy phải có những trung tâm môi giới, những tổ chức môi giới "lậu" đầy rẫy ở thành phố, nhất là TP. Sài Gòn. Những vụ bắt bớ hàng trăm cô gái quê lên tỉnh chờ được "tuyển" như kiểu mua bán heo, vẫn lẻ tẻ xảy ra.
Không thể cho rằng những
"trung tâm môi giới lậu" ấy làm việc bí mật quá, cảnh sát không thể khám phá ra hết. Một trung tâm như thế được tổ chức rất tinh vi, nhưng dù
tinh vi cách nào thì họ cũng phải có thời gian tìm kiếm, nuôi dưỡng những cô gái từ nhà quê lên thành phố. Vài chục cô phải có nơi chốn ăn ở, mua sắm, và một đội ngũ "mặt rô" bảo vệ canh giữ. Ngoài ra còn phải đón tiếp, giao thiệp với những người nước ngoài để chuẩn bị tuyển chọn và lo thủ tục kết hôn. Những hoạt động ấy không thể qua mắt những người hàng xóm và nhất là những cảnh sát khu vực. Nhất cử nhất động của của các tổ dân phố đều được canh chừng rất kỹ. Vậy thì không thể nói cảnh sát và chính quyền địa phương không biết. Có chăng chính là sự thờ ơ của những cơ quan này, nếu không muốn nói là "có cái gì đó qua lại"
giữa những tổ chức môi giới này với cơ quan chức năng. Bao nhiêu vụ khám phá ra rồi, chính quyền địa phương và cảnh sát khu vực vẫn yên vị. Sự ngăn chặn trở nên kém hiệu quả và lâu dần rồi trở nên vô hiệu. Mọi chuyện đâu lại vào đấy. Pháp luât cũng được thực thi theo phong trào. Khi nào nó bùng lên thì tích cực hô cho
lớn, hết phong trào lại xẹp lép.
Nhưng đó chỉ là một mặt của vấn đề. Quan trọng hơn vẫn là sự nghèo đói ở những vùng quê. Bên cạnh đó là sự tác oai tác quái của những ông kẹ nông
thôn, sự bất công xã hội còn đầy rẫy. Người dân không chịu nổi phải tìm con đường sống cho mình. Vươn ra những thành phố công nghiệp và những cô gái muốn cứu gia đình mình và chính mình thì con đường ngắn nhất là lấy chồng nước ngoài.
Phải nhanh chóng lấy chồng bất kể là ai
Hãy nhìn thẳng vào gia đình cô
gái vừa bị sát hại ở Hàn Quốc. Xã Ngọc Chúc (huyện Giồng Riềng, Kiên Giang) là một xã nghèo. Ấp Ngọc An nơi gia đình của Huỳnh Mai
sinh sống là xóm cũng thuộc dạng cực nghèo, công việc chính làlàm thuê hoặc nông nghiệp. Căn nhà nơi Huỳnh Mai
sinh sống trước khi ra đi bằng lá đơn sơ, rách nát. Gia đình có năm người, hai vợ chồng và ba
người con, trong đó Huỳnh Mai là con gái lớn. Nhà chẳng có cục đất chọi chim, đến ngôi nhà đang ở cũng phải ở nhờ trên đất mẹ vợ.
Cái nghèo "mạt rệp" đã khiến Huỳnh Mai bỏ học sớm, rời xa gia đình xuống tận Bạc Liêu
làm công nhân thủy sản từ năm 15 tuổi. Bốn năm sau, Mai chuyển về Bình Dương làm ở một xưởng gỗ trước khi trở về quê lấy chồng Hàn Quốc.
Sau những cuộc
"tuyển chọn", đám cưới được tổ chức nhanh chóng. Những cô gái tham gia đường dây
tuyển chọn, ban đầu còn một chút lựa chọn ông chồng tạm thời có thể chấp nhận được. Nhưng ăn ở nhà người dắt mối quá lâu sẽ rất tốn kém, công nợ ngập đầu, nên dần dà rồi gặp một anh đui què mẻ sứt, thậm chí bị bệnh tâm thần hoặc một ông lão lọm khọm cũng phải gật đầu đồng ý... cho xong chuyện. Ðỡ được đồng nào hay đồng ấy cho gia đình có chút vốn trước khi "theo chàng về dinh". Nhưng cuối cùng rồi số tiền được chồng mua cũng bị bóc sạch.
Như trường hợp của Huỳnh Mai,
tiệc cưới chỉ có... hai bàn. Ra về gia đình cô
dâu được chú rể cho 400 USD, tới cửa bị "trưởng đoàn" môi giới - là một phụ nữ có tên Yến - thu lại 200 USD. Còn lại 200 USD không đủ trả tiền thuê xe và ăn uống dọc đường.
Vậy "trưởng đoàn" tên Yến là ai?
Ðường dây này được tổ chức như thế nào? Mãi đến nay hầu như vẫn "bình an vô sự" chẳng thấy ai nhắc nhở gì đến "nhân vật trung tâm" này.
Trong khi đó, gia đình Huỳnh Mai cứ yên tâm
con mình đã đến bến bờ hạnh phúc. Bởi khi về đến xứ chồng, Mai liên tục gọi điện thoại về thăm gia đình. Khi được người nhà hỏi, Mai đều nói cuộc sống bên này rất hạnh phúc, được chồng thương yêu, mỗi lần chồng đi làm về mua đồ ăn cho gia đình rất nhiều, để đầy trong tủ lạnh.... Nhưng bà Nguyễn Thị Ðẹp, ngoại của Huỳnh Mai, khóc không thành lời kể: "Vì thương
gia đình nên nó mới nói như thế. Chứ nó ở bên đó khổ sở lắm, chồng không cho đi ra ngoài, không được học tiếng Hàn, suốt ngày chẳng nói chuyện được với ai. Nó điện thoại về cho hàng xóm thì khóc nức nở trong điện thoại, nhưng mọi người không dám nói thẳng với gia đình.".
Thảm kịch trong lòng người con gái trẻ xứ quê này, khó có thể hình dung ra hết. Nhưng không
phải chỉ một Huỳnh Mai hàng ngày phải chịu đựng nỗi đau nhục này.
Còn nhiều nữa những
thảm cảnh như thế
Ở Hàn Quốc hiện có đường dây nóng đầu tiên và duy nhất của Trung tâm nhân quyền phụ nữ di trú
Hàn Quốc (thuộc Bộ Phụ nữ - Gia đình Hàn Quốc) chuyên hỗ trợ tư vấn 24/24 giờ trong suốt 365 ngày cho các vấn đề bạo lực gia đình, cưỡng hiếp, mại dâm... của các cô gái nước ngoài lấy chồng Hàn ở khắp nơi trên đất nước Hàn Quốc. Họ thẳng thắn cho biết:
" Chuyện phụ nữ Việt lấy chồng Hàn bị hành hạ, bị đánh chết, sau khi đẻ con thì bị chồng bắt con giấu đi, hoặc bị chồng đánh đập rồi đưa lên xe chở đi đến chỗ vắng vứt ra đường... thì bên này nhiều lắm!". Xin tạm kể hai vụ gần đây nhất:
1- Trường hợp đầu tiên là một cô gái trẻ quê Cần Thơ, khi sang Hàn Quốc thì bị người chồng ép buộc quan hệ sinh lý triền miên, lại giam kín trong nhà không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chịu không nổi sự bức bối về tinh thần lẫn thể xác, cô
gái xé mành cửa tìm cách thoát ra ngoài bằng đường cửa sổ. Nhưng nửa chừng thì
dây đứt, cô gái bị rơi từ lầu cao xuống đất tử nạn. Hơn ba tháng xác cô gái không đưa về được Việt Nam, vì gia đình cô nghèo không đủ tiền, trong
khi phía chồng cô vẫn từ chối đưa ra một số tiền thích đáng để lo hậu sự.
2- Một câu chuyện khác là
một cô gái Hà Nội lấy một người đàn ông Hàn Quốc đã một lần ly hôn, có một đứa con trai riêng. Cô gọi đến đường dây nóng khóc lóc nói rằng chồng cô quý
con hơn vợ, nhiều lần đánh đập cô. Quá phẫn uất, cô gái đã đóng đinh lên bậu cửa, chuẩn bị một sợi dây thòng lọng để tự tử. Người chồng phát hiện được, đem giấu sợi dây đi, nhưng tình trạng đánh đập vẫn xảy ra. Cô muốn báo cảnh sát cũng không được, vì những lần như thế người chồng luôn giật lấy điện thoại không cho cô gọi. Khi cô có mang phải vào bệnh viện cấp cứu, bác sĩ chẩn đoán rằng vì bị đánh đập nên thai nhi đã bị chết trong bụng mẹ. Lúc rời bệnh viện về nhà thì người chồng đóng sập cửa, đuổi cô đi... Tứ cố vô thân là nỗi lo lớn nhất của những cô gái bị nhà chồng xua đuổi.
Chỉ cần nghe hai chuyện này
thôi, người Việt
Nam
dù ở đâu cũng thấy nghẹn đắng, căm phẫn. Chính quyền VN và Hàn Quốc và kể cả những nước khác như Ðài
Loan
,
Singapore
sẽ làm gì để ngăn chặn tình trạng này? Ðã đến lúc không thể chấp nhận nỗi đau nhục này nữa. Trước hết, Việt
Nam
phải là nước đầu tiên có những biện pháp cụ thể hơn, quyết liệt hơn. Ngay từ những địa phương và ngay từ những làng xã nông thôn, những phường khóm ở thành phố.
Sự việc này có liên quan đến những "ông kẹ" ở địa phương. Nếu còn để những kẻ côn đồ, du thủ du thực, con ông cháu cha lộng hành như vụ ở sân bay
Ðà Nẵng thì chẳng bao giờ người dân được yên ấm cả.
Con vua thì lại làm vua
Tôi phải thành thật nói rằng sự việc vừa xảy ra tại sân bay
Ðà Nẵng không hề làm tôi ngạc nhiên chút nào. Rất nhiều người dân ban đầu cũng có ý nghĩ đó. Bởi con ông cháu cha, bố làm bí thư, con làm
công an hoặc một chức vụ gì đó "thơm như mít" là thứ chuyện
"bình thường không có gì đáng kể" ở đây rồi. Và, cứ nói thẳng thì ở đâu cũng có những chuyện như thế này. Bố làm lớn, con cái cháu chắt, được dắt vào làm là chuyện chung của xã hội. Chỉ khác cái là ở VN thì chuyện này nhiều hơn, trắng trợn hơn mà thôi. Còn có tài có đức hay không, chẳng phải là vấn đề quan trọng. Quan trọng vẫn là cái lý lịch ba đời nhà anh như thế nào. Thời được gọi là "bao cấp" cũng vậy, bây giờ cũng vẫn vậy. Nhất là một ngành như ngành công an thì sự tuyển lọc càng kỹ càng hơn, tất nhiên họ hàng nhà
quan bao giờ cũng được ưu tiên.
Tiên tri của người dân như thần
Cho nên ngay từ khi có
thông tin về vụ một thanh niên rút kiếm định
"phang" mấy cậu bảo vệ ở sân bay Ðà Nẵng, tôi ngồi quán cà phê đầu đường ở nhà quê, người dân đã có thể phán đoán một cách rất "lô gích" rằng: dân "quậy"
này ít nhất cũng phải là con quan, có thần có thế lắm mới dám làm
như thế. "Ngầu" như mấy bác tài xế taxi mà thấy bóng dáng mấy anh bảo vệ sân bay còn phải "co vòi", vậy mà tay này dám chửi
"vung xích chó" thì chẳng phải tay vừa. Không dựa vào đâu thì mấy cậu bảo vệ, toàn những anh võ nghệ đầy mình, cho một trận tời bời hoa lá chứ dỡn sao".
Quả nhiên lời
"tiên tri" của người dân trúng phóc, bởi đó là kinh nghiệm xương
máu của họ từ bao lâu nay. Anh thanh niên đó tên Ðỗ Hoài Phương
Minh là con của ông Ðỗ Văn Công, bí thư huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Thông tin cho biết "Một vụ ẩu đả bằng kiếm đã xảy ra vào hồi 13g30 ngày 11-8 tại sân bay quốc tế Ðà Nẵng giữa một thanh
niên xưng là cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Dương
với lực lượng an ninh sân bay Ðà Nẵng".
Văn hóa lịch sự không có trong con người như thế này
Sự việc chẳng có gì
là to chuyện nếu anh thanh niên kia vui vẻ đề nghị với mấy anh bảo vệ "làm ơn cho đậu chút xíu sẽ đi ngay". Một lời nói ôn hòa nhã nhặn, chắc chắn sẽ xong. Nhưng nền văn hóa lịch sự không có
trong con người anh thanh niên đã từng quen lối đối xử thô bạo với người dân nên anh vênh váo lớn tiếng quát nạt nhân
viên bảo vệ sân bay. Và còn ra oai chửi tục và có thái độ mạt sát nhóm an ninh. Không những thế anh ta
còn mở cóp xe, rút kiếm như những samurai Nhật Bản định làm thịt mấy cậu an ninh phi trường. Theo lời của anh Thái Quang Vinh (Ðội an ninh trật tự, Trung
tâm an ninh hàng không) kể: "Lúc này, có một đôi nam nữ mang
hành lý đi ra, anh ta dừng xe, mở cốp bỏ đồ và chửi thề: "Tụi bây cởi đồ ra tao đập chết tươi". "Tôi nói, thì cứ đánh đi, cần gì phải cởi đồ".
"Nói chưa dứt câu, người này cầm thanh kiếm kiểu Nhật dài 80 cm, sấn tới định chém tôi. Nhưng chưa kịp vung lên thì anh Phương (nhân viên an ninh, cùng ca trực) đã khống chế anh ta từ phía
sau. Tôi một tay cầm chuôi, một tay cầm lưỡi, bẻ cong thanh kiếm". Anh Vinh khẳng định:
"Nếu anh em không nhanh tay khống chế, chắc chắn tôi đã bị chém".
Ðiều này đã được một số nhân chứng có mặt tại sân bay chứng thực. Lúc đó tại sân bay Ðà Nẵng có 5 chuyến bay nội địa, 1 chuyến bay quốc tế với lượng hành khách ra cổng lên tới 800 - 900 người. Quanh đó, có khoảng 30 người, Tây có ta có, chứng kiến toàn bộ sự việc, nhiều người nói: Hành động đó chỉ có thể là "xã hội đen"...
Ngoài ra trong bản kết luận của Công an
quận Hải Châu có ghi lại câu Minh dọa: "Tao điện cho bọn mày nghỉ việc hết". Nhiều phóng viên theo dõi vụ việc này từ đầu luôn nghe được câu này, Minh còn nói thẳng tên người mà Minh gọi điện thoại là vị lãnh đạo cao nhất của thành phố Ðà Nẵng. Cho dù không biết Minh có quen ông ta không?
Hèn chi trong lúc vào lập biên bản, anh ta
chẳng thèm để ý đến ai, chỉ ngồi ung dung gọi điện thọai di động, chắc là gọi cho toàn những vụ tai to mặt lớn nào đó để "cho nghỉ việc những thằng dám hỗn với con quan". Minh cũng liên tục nhục mạ các nhân
viên an ninh: "Tao không làm việc với bọn bây,
tao chỉ làm việc với lãnh đạo thành phố".
Và sau cùng anh ta cũng chẳng thèm
ký vào biên bản cho mệt cái bàn tay... dùi đục. Dù chỉ là con
quan ở một huyện tận xứ Bình Dương xa lắc. Thế mới biết dây mơ rễ má của các quan chằng chịt khắp nơi. "Bác bác, chú chú", "anh anh, em em" loạn xà ngầu. Người dân không chằng không rễ đụng vào thì dù đúng hay sai cũng "ốm đòn" là cái chắc.
Thái độ "hiên ngang" của Ðỗ Hoài Phương Minh khi lập biên bản vẫn ngồi gọi điện thọai cho "người
thân", chẳng buồn để ý đến ai.
Lá chắn của những
thanh kiếm
Vụ này dù có thế, nếu xử khéo ra,
dù có là "chú bác, anh em" của gã thanh niên nghênh ngang kia,
chỉ cần dàn xếp để xin lỗi nhân viên an ninh là cũng xong. Thế nhưng dường như theo quan niệm của những vị quen làm khó người khác thì sự xin lỗi là xúc phạm đến uy tín lớn lao của nhà quan. Vụ việc lại được "xử lý" theo một chiều hướng khác.
Khi về đến công an
huyện Hải Châu, chiều 12-8, ông Võ Tương, Thượng tá, Phó Công an quận Hải Châu đã cho các
phóng viên báo chí một điều khá bất ngờ là thông tin do người đứng đầu Công an quận Hải Châu cung cấp lại gần như ngược với biên bản của Trung tâm An ninh Cụm cảng hàng không miền Trung.
Ông Võ Tương
"lý luận" rằng cây kiếm đó chỉ là dao, Minh mua ở chợ biên giới về chơi. Và "Minh mở cốp xe để sắp xếp lại đồ đạc, có cây kiếm để sẵn trong đó. Chỉ vô tình mà vỏ kiếm rơi ra chứ Minh cũng không có ý định gì. Nhân viên an ninh sân bay thấy vậy liền ôm vào
giật kiếm và thu giữ. Tuy nhiên hậu quả cũng chưa có gì và cũng không ồn ào, lộn xộn gì lắm trong sân bay!"...
Chỉ cần nghe "lời giải
thích" này thôi, ai cũng hiểu ông công an lớn có ý định bênh vực ông công an nhỏ hay không. Lá chắn và thanh kiếm đã lờ mờ nhận ra ngay từ phút đầu. Tuy nhiên với những lời hứa hẹn: "Chúng tôi sẽ làm rõ hành vi và xử lý
nghiêm nếu quả thực có vi phạm, cho dù có là chiến sĩ trong ngành cũng sẽ không
khoan nhượng. Và chúng tôi làm vụ việc này hết sức công
tâm, không hề có một sự can thiệp nào!".
Thanh "sắt" này, trẻ con cũng gọi là kiếm. Nhưng ông Võ Tương, Thượng tá, Phó Công an quận Hải Châu không gọi là kiếm, mà gọi là... đồ chơi. Vui thật.
Kết quả của
sự công tâm là gì?
Thế rồi "một buổi chiều"
quyết định của Công an huyện Hải Châu được đưa ra. Gọn gàng và... nhẹ nhõm.
Theo kết luận của Công an
Q.Hải Châu, hành vi của Ðỗ Hoài Phương Minh không cấu thành tội "chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí thô sơ và công
cụ hỗ trợ" được qui định tại điều 233 BLHS và tội "chống người thi hành công vụ" qui định tại điều 257 BLHS. Do vậy Công an Q.Hải Châu ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với việc do Minh gây ra ngày 11-8 tại sân bay Ðà Nẵng. Công
an Q.Hải Châu chỉ xử lý hành chính đối với hành vi của Minh về việc mua, vận chuyển vũ khí thô sơ... và hành vi gây rối trật tự công cộng có
mang theo vũ khí thô sơ, đồng thời thu giữ và tịch thu hai cây kiếm do Minh mua từ cửa khẩu Móng Cái với giá 1,5 triệu đồng.
Ðỗ Hoài Phương
Minh còn phải nộp phạt 5 triệu đồng. "Việc Minh có lời nói, thái độ không đúng với tư cách người công an nhân dân cùng với những vi phạm hành
chính nói trên, Cơ quan CSÐT Công an Q.Hải Châu thông báo để Công an tỉnh Bình Dương xử lý Minh theo thẩm quyền".
Thế là cậu ấm Ðỗ Hoài Phương Minh
thảnh thơi ra lái chiếc xe hơi láng coóng của mình ra về cùng vợ con bè bạn tênh tênh như chẳng có gì xảy ra.
Người dân lại sững sờ
Quả thật quyết định này đã làm người dân ngơ ngác đến sững sờ. Sự nghi ngại của người dân lại đúng. Nói thẳng ra đây là một vụ bao che trắng trợn, thách thức dư luận. Chẳng có thế mà ngay khi cái quyết định quái đản kia vừa được công bố, lập tức dư luận đã phẫn nộ càng như đổ thêm dầu vào lửa. Nhìn vào tất cả các trang báo, toàn bộ dư luận của người dân, 100% không ai có thể đồng tình với quyết định này. Hẳn là Công an Hải Châu có thể dự trù trước được phản ứng đó. Nhưng họ vẫn làm.
Có hàng trăm câu hỏi xung quanh vụ "múa kiếm" này. Tôi không thể tường trình
hết.
Hơn thế đây không
phải là lần đầu tiên Minh hành xử như vậy. Khoảng giữa năm 2000, Minh và một trinh sát Phòng cảnh sát hình sự Công an
tỉnh Bình Dương và vài người bạn tới quán karaoke ở huyện Thuận An, Bình Dương.
Tiếp viên không phục vụ theo "yêu cầu", Minh rút khẩu súng nhỏ bằng chiếc bật lửa rồi bóp cò.
Viên đạn đầu tiên lép, viên thứ hai làm cháy sém quần của một tiếp viên.
Hai viên sau ghim vào trần nhà.
Nghe tiếng nổ, chủ quán gọi điện thoại cho công an 113 đến lập biên bản. Một tuần sau, Minh hăm dọa họ muốn yên thì im lặng. Chủ quán hoảng sợ và đã nghe lời. Vụ việc được giải quyết theo kiểu "gói gọn". Viên cảnh sát đi cùng Minh bị giáng cấp.
Minh bị kỷ luật, chắc lại
"phê bình, kiểm điểm" cho phải phép. Như vậy người dân có quyền nghi ngờ còn khối vụ tương tự xảy ra, nhưng người dân thấp cổ bé miệng đành chịu.
Những câu hỏi của người dân:
Ngay khi quyết định được công bố, tức khắc người dân công khai bày tỏ sự tức giận của mình:
"Vụ cảnh sát Minh nổ súng
trong quán karaoke, người ta đã không gọi súng là súng mà gọi là "công cụ hỗ trợ bị cướp cò". Cướp cò gì mà lần lượt từng viên một cho đến 4 viên? Lại bảo: "Chúng tôi cũng không biết súng
này do đơn vị trang bị hay ở đâu ra?". Một câu trả lời rất vô
trách nhiệm. Súng đơn vị trang bị mà mang đi hát karaoke rồi... bắn, càng sai; súng lấy ở đâu lại càng
nguy hiểm, tại sao lại bỏ qua chi tiết này? Nếu không phải là Minh thì có được bỏ qua không?"
Kiếm không gọi là kiếm thì gọi là gì.
Chỉ có cái bao được gọi là bao kiếm. Súng không gọi là súng mà gọi là "công cụ hỗ trợ" thì đúng là muốn gọi sao cũng được. Gọi là "ống" cho nó tiện việc sổ sách vì người ta thường nói "súng ống". Ðúng là miệng nhà quan có gang có thép.
"Một chi tiết nực cười khác là khi được hỏi vì sao xe máy Minh có biển đăng ký
"tứ quý" (9999) và xe hơi biển đăng
ký cực đẹp (2727), cũng được cấp trên của viên cảnh sát này trả lời: "Có thể là do Minh may mắn!". Ðược cấp trên trả lời thế thì Minh quả là người may mắn nhất còn gì?
Chiếc xe láng coóng, bảng số "đẹp" 2727 của cậu ấm, cấp trên của cậu cho rằng do "may mắn"! Xe máy của cậu cũng là do may mắn nên có số "tứ quý" 9999.
Mách giúp
Nhân mùa Lễ Trung Thu sắp tới, xin
mách nhỏ cậu ấm may mắn kia nên đi mua ngay chừng chục hộp bánh trung thu dát vàng do Công ty Cổ phần Bánh kẹo ANCO sản xuất vừa được tung ra thị trường. Hộp bánh được trang trí bụi vàng giá 2.999.999 đồng có tên Ðế Vương. Nhân bánh Ðế Vương được làm từ 9 loại dược phẩm (đông trùng hạ thảo, nhân sâm, bào ngư, vây cá mập, trứng cá, yến sào, nấm linh
chi, vảy têtê, hải sâm). Chỉ có 999 hộp bánh Ðế Vương được tung ra thị trường. Khách hàng mua sản phẩm của công ty
sẽ nằm trong danh sách khách hàng VIP, được chăm sóc đặc biệt hàng năm.
Cậu ấm nên mua ngay kẻo hết. Mua
làm gì chắc cậu thừa thông minh biết cách sử dụng. Mua và mang đi lung tung làm quà tình cảm cho ngày thêm mặn nồng. Nhà sản xuất làm ra
những thứ bánh "đế vương" đó để bán cho những gia đình sống "đế vương" như cậu chứ những gia đình như người con gái xấu số Huỳnh Mai thì chỉ có ngồi mà uống nước mắt thưởng trăng thôi.
Vậy cậu nên mua... hết số bánh
"đế vương" này, giá 2.999.999 đồng và chỉ có 999
chiếc, chắc sẽ mang lại phú quý cho gia đình cậu nhiều hơn nữa.
Xử lý kín kẽ
Trở lại với vụ "xử lý" của Công an quận Hải Châu. Trên nguyên tắc, quyết định không khởi tố vụ án hình
sự của Công an quận Hải Châu sẽ được Viện trưởng Viện kiểm sát quận xem xét. Nếu đúng pháp luật, Viện trưởng sẽ có văn bản đồng ý. Trường hợp ngược lại, Viện trưởng Viện kiểm sát quận sẽ ra quyết định hủy, trả hồ sơ và yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu điều tra lại vụ việc.
Tuy nhiên, ông Trần Viết Liên
(Phó phòng Tổng hợp, hiện đảm nhận nhiệm vụ phát ngôn viên của Công an Ðà Nẵng) cho biết, trước khi Công an quận Hải Châu đưa ra kết luận đã có cuộc họp bàn và đi đến thống nhất giữa các ngành công an, kiểm sát và tòa án của quận. Do vậy, cơ quan điều tra cấp trên
không can thiệp nữa. Ông nói: "Có vấn đề gì thì mới xem
xét, còn không có gì thì xem xét làm gì!"
Qua lời phát biểu đó, có thể thấy Viện kiểm sát quận Hải Châu cũng đã
"thống nhất" trước khi kết luận của Công an quận Hải Châu được đưa ra. Nói khác đi, mọi ngả đường để vụ việc của Ðỗ Hoài Phương Minh được xem xét trở lại cho đúng với bản chất của nó hầu như đã bị bịt kín.
Cuối cùng lại trông đợi áp lực của dư luận như những vụ ăn đất ở Ðồ Sơn và Gò Vấp để hy vọng Viện kiểm sát Hải Châu có thể ra một quyết định khác hoặc chỉ còn có Tổng cục Cảnh sát can thiệp như lời hứa nữa mà thôi.
Chúng lại chờ xem vụ này đi đến đâu. Con ông cháu cha được bao che đến mức nào?
Tóm lại trong tuần vừa qua, một thảm kịch của cô con
gái nhà nghèo bị bán sang quê người và một "hài kịch" của cậu ấm con quan ở sân bay Ðà Nẵng đã cho chúng ta thấy được những hình ảnh cực kỳ trái ngược của xã hội hiện tại.
Tôi không có tham vọng tường trình hết được những mảnh đời này, cần đến sự tưởng tượng sâu sắc của bạn đọc.
=END=
7- Văn Học Nghệ Thuật
- Tìm Xưa Châu Thổ
Phan Thái Yên
Cô liêu đàn xưa ngân trên sông...
Người đàn ông dừng lại bên bờ nước, vẩy tay cười nhìn bóng dáng bé bỏng của đứa cháu nội, tay bở ngở chiếc cần câu, e dè ngồi bên bố đang chèo chiếc xuồng độc mộc đi tìm chổ câu cá. Ðã nhiều năm vào mỗi mùa hè, cha con ông vẫn thường tìm lên vùng biên hồ này một đôi tuần như nơi nghĩ mát hàng
năm. Năm nay là lần đầu tiên đứa cháu nội vừa lên sáu của ông được "go fishing up North". Ông vui hơn vì có thêm đứa cháu nhỏ chuyện trò và hình như mỗi năm ông càng xao xuyến hơn với những buổi chiều trên biên hồ. Trong ráng chiều đỏ ối rười rượi cơn gió bát ngát đi về, mặt trời im lìm khuất bóng lặng lẽ mà bồn chồn như vết tàn phai của ý nghĩ lao lung về một khung trời mộng cũ, mang mang châu thổ vang vọng triều dâng.
Chiếc xuồng đã chèo xa
khuất tầm nhìn mà đâu đó còn vọng lại tiếng cười lãng đãng bay trong chiều bát ngát vương trên mặt hồ bập bềnh hoa súng như những nụ đèn chờ thắp hoàng hôn. Hoa súng vàng điểm xuyết lên từng từng thảm xanh lục bình tự tại nổi trôi
vào ngút đuối mắt nhìn. Màu lam tím của hoa bèo níu sa xuống mây
chiều rồi lan xa vào vô tưởng chân trời giờ đây như tràn ngập tiếng reo cười, âm vọng thanh xuân. Phải chăng là tiếng cười trẻ thơ của đứa cháu vừa câu được con cá đầu tiên trong đời hay chính tiếng mình buổi thanh xuân trên quê hương một thuở lớn lên...
Giòng nước bạc giòng sông trôi theo dõị
Cuối chân trời hình bóng một chân mâỵ
Ðời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lạị
Giữa hư vô em giữ nhé chừng này...
(Bùi Giáng)
Tìm xưa châu thổ. Xốn xang
lòng ông hình ảnh con tàu chập chùng đêm Cửu Long văng vẳng điệu buồn phương Nam trải trang lời kinh sấm giảng ru ấm hồn người. Nhắm mắt lại, trải hồn ra, để thấy mình nằm trên khoang đò dõi mắt về phố bến huyền hoặc ánh đèn. Trên dòng Tiền Giang, tàu chạy qua Bắc Mỹ Tho, thành phố nửa đêm về sáng đẹp lạ lùng. Hay theo chuyến tàu sớm khởi hành từ Kinh Ông
Chưởng để về Long Xuyên cho kịp phiên chợ. Thuyền đò san sát trên bến sông. Hãy vào một quán chợ kêu ly xây chừng, lòng sảng khoái mồi điếu thuốc đầu ngày.Hay dẫn đoàn tàu từ Phong Phú về, hung hãn phóng nhanh cho kịp buổi nhậu. Thành
phố Cần Thơ vừa lên đèn, bến Ninh Kiều quyến rũ như cô gái Nha Mân ngồi hong mái tóc dài thoang thoảng hương chanh.
Dòng kinh chảy sâu vào trong bao
la của trời đất hình như đã mang đủ chiều dài cho gió thênh thang. Tàu chạy hết ngày
vào tới đêm. Chạy hết chiều dài của dòng kinh để thấy mình nhỏ nhoi giữa trời khuya mênh mông. Bỏ lại sau lưng bến đò An Long, hắt hiu ngọn đèn vàng,
buồn như lòng cô chủ quán đã tàn xuân. Con tàu vẫn chạỵ Giữa vàm sông rộng, tiếng máy trầm đều ngái ngủ. Tàu ghé qua Vàm Láng, quán nửa khuya thao thức ánh đèn rọi xuống mặt sông
lao xao. Xa xa ngọn tháp cao nhà thờ trên Cù Lao Giêng chênh vênh mơ hồ trong ánh trăng. Tàu
chạy sâu hút vào nửa đêm về sáng. Con lộ giới nghiêm im vắng trải dài qua Cái Dầu nằm say ngủ dưới ánh đèn đường vàng vọt. Mờ ảo trong ánh sáng đầu ngày, chuyến tàu chợ sớm từ Tân Châu về Châu Ðốc xao xác tiếng người...
Từ bến bắc Cao
Lãnh lên tàu theo con nước xuôi về Chợ Mới, chưa hết phiền hà vì sự chật chội nóng nực của hơn nửa ngày xe đo, lòng chợt mát rượi như vừa được uống miếng nước mưa giữa buổi trưa hè. Cái cù lao nhỏ nhoi mà ân cần như ốc đảo giữa sa mạc. Rừng cây xanh bao kín cù lao chỉ chừa khoảng trống vừa đủ cho con kinh nhỏ theo vào. Dòng nước trong và êm tưởng chừng như chỉ những giọt nước hiền mới được phép quây quần. Ngay khoảng trống đó là cánh cửa vô hình, ranh giới giữa cuồng nộ và yên bình. Bên trong, khung cảnh mở ra đẹp như một vùng chiêm bao. Hàng cây hai bên con đường nước châu đầu trò chuyện, cành lá đan vào nhau làm những miếng nắng phải len lỏi mãi mới sa xuống được mặt nước mát. Tàu trôi dưới vòm câỵ Tâm hồn nhẹ nhàng tưởng như đang chậm bước trong một giáo đường thênh thang. Những ngôi nhà nền đắp cao mái ngói đài các ẩn hiện sau những lùm điên điển lấm tấm hoa vàng. Nối liền mỗi nhà với con kinh là mương nước rộng, xuồng lớn có thể chèo vào tận đến đầu hiên nhà.
Cao Lãnh. Chữ nghĩa người xưa giờ sao nghe đắng caỵ Ước mơ lớn lao của ông Tổng Ðốc, lãnh mệnh Chúa phái vào sâu trong đất Nam Ky giữa vùng nước thấp mênh mông tràm đước để mở mang bờ cõi, đã thể hiện qua những địa danh đẹp như Mỹ An, Mỹ Phước, Phước Xuyên... Có lẽ giữa cảnh trời nước mênh mông nhớ người còn ở lại đất Thần Kinh, ông quan trẻ trong giây phút lãng mạng đã lấy tên vợ Vĩnh Tế để gọi một dòng kinh mới. Và lạ chưa, có một buổi chiều gió Tịnh Biên rợp vàng trí nhớ, rượu uống ngà ngà say, đứng bên dòng Vĩnh Tế dõi mắt về phương
xa nhớ thương ngày cuối biển. Dòng nước cưu mang nỗi lòng Thất Sơn, Hồng Ngự chảy qua vùng đất Giang Thành qua miệt Hà Tiên rồi đổ vào biển rộng. Ðứng đó bên bờ kinh nhỏ sao nghe lòng mình xôn xao tiếng sóng.
Ngược hướng Tịnh Biên, bóng mây không che được dáng
núi Thất Sơn, kiêu bạc quàng vai dãi lụa sầu châu thổ. Giòng nước lung lay soi bóng người, bóng thời gian lẩn khuất không
trôi. Ông quan trẻ lãnh mệnh Vua đi mở nước, từ hơn trăm năm trước từ giã đất Thần Kinh tìm đến miền ba-sông-bảy-núi xa vời đất khách. Người đã đến từ một cuối biển Ðông xa hay phải lặn lội qua đôi lần sông mênh mông sau trước? Ðỉnh núi
nào người xưa đã đứng vọng một tiền đồ rồi mường tượng tới giòng kinh nối biển? Giòng sông đào như dải ruột mềm trang trãi tấm lòng quân tử vua tôi, man mác nghĩa phu thệ Thoại Hà,
giòng sông đào vua ban cho tên gọi, đầm đìa nỗi lòng Vĩnh Tế, đã cưu mang từng giọt phù sa
nặng lòng châu thổ đến tận bờ nước Hà Tiên.
Con người trên những dòng
sông. Truyền kiếp. Núi biển chia lìa từ thuở khói sóng hồng hoang mơ hồ thanh sử. Những dòng sông chẳng hề gặp nhau, lận đận gian nan như đường chỉ tay in hằn số phận. Những dòng sông cắt chia nhiều nhánh cho nước nguồn bơ vơ biển lớn. Những dòng sông cố gắng giải thông lời nguyền khắt khe buổi đầu dựng nước. Dòng sông chảy ngang chia cắt lòng người, đầm đìa giọt mồ hôi từ đá sỏi nghìn xưa. Con người nổi trôi theo định mệnh u hoài của dòng sông muôn đời gắng công nối liền biển núi. Người xưa. Cơ đồ. Mệnh nước. Một thuở biên cương. Trăm năm sau, cõi giang biên âu sầu muối mặt, bơ phờ cơn gió tai ương. Ta đã đôi lần từ biển đến, lòng lú lấp phiền hà rồi say khướt biếng lười đâu đó cuối giòng để bây giờ, hồn nặng vàm sông bến nước, đứng bên giòng kinh biên giới, tần ngần về một nửa ngày
sông. Và cả một đời mình. Phải chăng chỉ để tròn một bước chân vô ích mà lòng thì vẫn quằn nặng ưu tư giấc mộng không
thành?
Ðôi khi muốn quay về, ngồi yên dưới hiên nhà...
(TCS)
Người đàn ông trở về lều nhóm lửa pha cho
mình ly trà nóng. Buổi chiều biên hồ êm ả như ru. Bầy vịt trời nô đùa trên mặt hồ làm đong đưa những cánh hoa súng như từng miếng nắng nhỏ lung
linh rồi soải cánh theo nhau bay về phía ráng chiều lướt thướt những sợi mây hồng. Nơi nào là quê-nhà cho một kiếp thiên
di khi vùng nước sẽ đóng thành băng khi mùa đông tới? Ông đã nổi trôi đắm chìm trên giòng sông đời mình. Làm thân tàu
trôi xa khỏi vịnh biển êm đềm, lênh đênh trên khắp cùng sông biển quê hương, để rồi sống cuộc lưu cư suốt kiếp đời còn lại mà lòng thì mãi nhớ về giòng sông nhỏ quê nhà.
Ba mươi hai năm. Giòng
nước sông Thu Bồn một cuối tháng Ba đã đẩy đời người trôi tuốt khơi xa, vào cuộc truân chuyên. Xa rồi đêm trăng Thuận Tình mờ mờ cát vàng
Xuyên Thọ. Vùng đầm sông nối biển, trộn nước nguồn Ô Lâu-Thu Bồn-Ðế Võng với nước biển Ðông là dấu mốc oan khiên mặn xát hồn lưu xứ. Nhìn bầy lục bình giạt trôi trên mặt hồ bát ngát, lòng chợt bồn chồn câu hát cũ, quay về, yên ổn, hiên nhà. Tiếng vịt gọi bầy lãng đãng gần xa, âm vọng mơ hồ một bến bờ để dừng đôi cánh mỏi. Tiếng reo cười của đứa cháu nội rõ dần theo bóng dáng chiếc xuồng đang lách
qua từng mảng lục bình chèo về phía lều nơi bếp lữa đang bập bùng. Quê nhà. Ra đi. Trở về. Cữu Long.
Mississippi
.
Ông cười với cháu nội khi đở xâu cá trên tay đứa bé. Bếp lửa đầu sông Mississippi sẽ nấu chín con cá đầu tiên cháu ông câu được. Ông
vui lòng nhủ thầm.
=END=
**********************************